Công ty chúng tôi mua quyền sử dụng đất từ cá nhân với giá 3 tỷ đồng và nay chuyển nhượng cho khách hàng với giá 4 tỷ đồng. Thửa đất này đã qua nhiều lần sang tên, không còn hồ sơ về tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất đã nộp cho Nhà nước trước đây. Khi nghiên cứu Luật Thuế GTGT 2024 và Nghị định 181/2025/NĐ-CP, chúng tôi gặp vướng mắc: Trong trường hợp không xác định được “tiền sử dụng đất, tiền thuê đất nộp ngân sách nhà nước” của thửa đất, thì chúng tôi phải tính thuế GTGT như thế nào? Giá tính thuế có được trừ “giá đất” hay không?
Alternate Text
Câu hỏi: Công ty chúng tôi mua dịch vụ ngày 29/6/2025 trị giá 20.000.000 đồng, thanh toán theo hai đợt. - Đợt 1: 10.000.000 đồng, thanh toán ngày 08/8/2025 (trong hạn). - Đợt 2: 10.000.000 đồng, thời hạn theo hợp đồng là 30/9/2025 nhưng hai bên ký phụ lục gia hạn đến 30/10/2025 và có tính lãi chậm trả. Công ty thanh toán ngày 28/10/2025 và nhà cung cấp xuất thêm hóa đơn phí chậm trả 83.300 đồng. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 26 Nghị định 181/2025/NĐ-CP về điều kiện thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua trả chậm/trả góp: Như vậy, khoản thanh toán đợt 2 (10.000.000 đồng) có được khấu trừ thuế GTGT đầu vào không? Khoản phí chậm trả 83.300 đồng có được khấu trừ thuế GTGT đầu vào không?
Alternate Text
Công ty A được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư theo văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư. Sau đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án, trong đó Công ty A là chủ đầu tư. Do Công ty A không có trụ sở tại địa phương nơi thực hiện dự án nên gặp khó khăn trong việc thực hiện các nghĩa vụ với chính quyền địa phương. Vì vậy, Công ty A đã thành lập Công ty TNHH B (do Công ty A sở hữu 100% vốn điều lệ) để trực tiếp triển khai dự án và thực hiện nghĩa vụ ngân sách. Cơ quan đăng ký đầu tư đã điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo hướng bổ sung Công ty TNHH B là đơn vị tổ chức thực hiện dự án, sau đó tiếp tục điều chỉnh để chuyển chủ đầu tư từ Công ty A sang Công ty TNHH B. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tương ứng trong văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư chưa được thực hiện. Hiện nay, Công ty TNHH B đã triển khai dự án đúng tiến độ và hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ với địa phương. Để bảo đảm tính thống nhất và đầy đủ về pháp lý, doanh nghiệp mong muốn điều chỉnh văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư để xác định Công ty TNHH B là nhà đầu tư mới. Tuy nhiên, trường hợp này không thuộc bất kỳ điểm nào của khoản 1 Điều 41 Luật Đầu tư 2020 về các trường hợp điều chỉnh chủ trương đầu tư. Như vậy, trong trường hợp này, có giải pháp pháp lý nào để thực hiện điều chỉnh chủ trương đầu tư hay không?
Theo quy định của Bộ luật Lao động tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, lợi ích phát sinh giữa các bên trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ lao động; tranh chấp giữa các tổ chức đại diện người lao động với nhau; tranh chấp phát sinh từ quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động (khoản 1 Điều 179). Tranh chấp lao động được phân thành tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể.
Tranh chấp lao động không chỉ là quan hệ tranh chấp quyền và lợi ích giữa cá nhân người lao động và người sử dụng lao động mà còn liên quan đến lợi ích chung của tập thể, xã hội. Vì vậy các tranh chấp rất đa dạng và phức tạp. theo quy định của Bộ luật Lao động, tùy thuộc vào loại từng loại tranh chấp mà cơ quan có thẩm quyền quyền giải quyết tranh chấp lao động khác nhau là: