Alternate Text
Để giúp doanh nghiệp hiểu và áp dụng đúng pháp luật, Công ty Cổ phần phát triển Thủy Long đề nghị Quý tổ chức nghiên cứu và có ý kiến pháp lý nội dung như sau: Trong quá trình điều hành sản xuất, kinh doanh, Công ty thường xuyên tổ chức các cuộc họp, Đại hội cổ đông, tuy nhiên, trong quá trình phát hành văn bản, cán bộ hành chính công ty vẫn có những thay đổi, xử lý kỹ thuật, thay trang trước khi phát hành dẫn đến có ý kiến phản ánh về tài liệu chính thống của Công ty, cụ thể là trường hợp Biên bản họp cổ đông số 13/2014/BB-HCĐ ngày 09/11/2014 của Công ty Cổ phần phát triển Thủy Long. Việc thay trang (nếu có) cũng không phải là việc làm có ý thay nội dung và chỉ xử lý kỹ thuật và thường xuyên thực hiện trong soạn thảo và in ấn văn bản của doanh nghiệp. Bởi lẽ, nhân viên hành chính doanh nghiệp trước khi phát hành phải kiểm tra lại và thay các trang văn bản lỗi nếu có. Vậy việc thay trang (nếu có) có hoàn toàn có đồng nghĩa với “làm giả” theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 hay không khi ý kiến giám định chuyên môn của cơ quan có thẩm quyền (Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh đã có Kết luận giám định số 12/KL–PC54 ngày 09/06/2016) cũng chỉ nêu nội dung kết luận giám định: biên bản có 04 trang, trang 1,2,3 phông chữ khác trang 4, các vết dập ghim không trùng nhau, kết luận biên bản bị thay trang không kết luận hồ sơ giả mạo (Biên bản cuộc họp trên có 4 trang và tại trang thứ 4 vẫn có đủ nội dung kết luận cần thiết và chữ ký của các cổ đông, các trang 1,2 và 3 không có chữ ký). Việc này Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình cũng đã có Công văn số 1184 CV- ĐKDN ngày 20/06/2016 gửi Cục Quản lý doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) để xác định có đăng ký doanh nghiệp hay không trong trường hợp trên khi cơ quan thẩm định đã kết luận như trên là có “thay trang” và ngày 22/06/2016, Cục Quản lý doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cũng đã có Công văn số 141/ĐKKD-GĐ có ý kiến như sau: “Trường hợp cơ quan công an không kết luận nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo thì chưa đủ căn cứ thu hồi Giấy đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 63 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP”. Với những thông tin và dữ liệu như trên, cùng với việc cơ quan chuyên môn đã có ý kiến là biên bản bị thay trang có được suy ra kết luận là hồ sơ giả mạo hay không? Việc này rất cần cách hiểu pháp lý thống nhất giúp cho doanh nghiệp tránh được các mâu thuẫn, tranh chấp pháp lý ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Alternate Text
Câu hỏi 1: Công ty chúng tôi là đơn vị kinh doanh thương mại chủ yếu là vật liệu xây dựng. Ngoài ngành nghề chính chúng tôi còn kinh doanh cho thuê mặt bằng, kinh doanh nhà hàng ăn uống và trung tâm tổ chức sự kiện và tiệc cưới như vậy theo Nghị định 41 Công ty có thuộc đối tượng được giãn nộp thuế hay ko? Trả lời: Theo quy định tại Điều 2 và Khoản 5 Điều 3 Nghị định 41/2020/NĐ-CP thì: Trường hợp doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh nhiều ngành kinh tế khác nhau trong đó có hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát sinh doanh thu trong năm 2019 hoặc năm 2020 của ngành kinh tế, lĩnh vực được gia hạn theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 và khoản 5 Điều 2 Nghị định này thì: doanh nghiệp, tổ chức được gia hạn toàn bộ số thuế giá trị gia tăng, số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp; hộ gia đình, cá nhân kinh doanh được gia hạn toàn bộ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo hướng dẫn tại Nghị định này. Căn cứ Danh mục ngành kinh tế ban hành kèm theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg thì hoạt động cho thuê mặt bằng của Doanh nghiệp thuộc nhóm ngành 68 – HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN và hoạt động kinh doanh nhà hàng ăn uống, trung tâm tổ chức sự kiện, tiệc cưới của DN thuộc nhóm ngành L: DỊCH VỤ LƯU TRÚ VÀ ĂN UỐNG. Cả 2 nhóm ngành này đều thuộc đối tượng gia hạn theo quy định tại tại Điều 2 Nghị định 41/2020/NĐ-CP. Như vậy, nếu trong các ngành nghề kinh doanh của Công ty, Công ty có hoạt động cho thuê mặt bằng, kinh doanh nhà hàng ăn uống, cung cấp dịch vụ ăn uống cho các sự kiện, tiệc cưới và phát sinh doanh thu từ các hoạt động này trong năm 2019 hoặc 2020 thì thuộc đối tượng được gia hạn nộp tiền thuế, tiền thuê đất theo quy định tại Nghị định 41/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 của Chính phủ.