Tình tiết sự kiện: Công ty nước ngoài (Nguyên đơn) và Công ty Việt Nam (Bị đơn) ký kết hợp đồng đăng ký và mua cổ phần. Trong hợp đồng, các Bên thỏa thuận Bị đơn phải cung cấp một số thông tin cho Nguyên đơn. Nguyên đơn cho rằng Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin nhưng Hội đồng Trọng tài xác định Bị đơn đã thực hiện nghĩa vụ này.
Tình tiết sự kiện: Công ty Trung Quốc (Nguyên đơn) ký hợp đồng với Công ty Việt Nam (Bị đơn) để cung cấp thiết bị và lắp đặt hướng dẫn vận hành. Bị đơn cho rằng Nguyên đơn chậm tiến độ và phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, Hội đồng Trọng tài không buộc Nguyên đơn chịu trách nhiệm mặc dù xác định có việc chậm tiến độ.
Tình tiết sự kiện: Trên cơ sở các giao dịch được xác lập giữa Công ty B (Nguyên đơn) và Công ty L (Bị đơn), Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn là 1.545.266.060 VND. Bị đơn cho rằng đã thanh toán cho Nguyên đơn bằng cách cấn trừ tiền và để chứng minh cho việc Bị đơn đã đưa ra một số Hóa đơn giá trị gia tăng nhưng không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận.
Tình tiết sự kiện: Công ty Trung Quốc (Nguyên đơn – Bên mua) ký hợp đồng với Công ty Việt Nam (Bị đơn – Bên bán) để mua cao su. Hàng đã được chuyển sang Trung Quốc cho Bên mua nhưng Bên mua cho rằng có việc thiếu hàng. Trên cơ sở kết quả giám định của một tổ chức tại Trung Quốc, Hội đồng Trọng tài xác định có việc thiếu hàng.
Tình tiết sự kiện: Công ty Malaysia (Nguyên đơn) và Công ty Việt Nam (Bị đơn) ký hợp đồng mua bán một bộ hệ thống sưởi ấm, thông gió và điều hòa không khí để lắp đặt trong Bệnh viện. Các Bên thỏa thuận xuất xứ hàng hóa là Malaysia và Hội đồng Trọng tài xác định hàng hóa phải được sản xuất tại Malaysia.
Tình tiết sự kiện: Công ty Việt Nam (Nguyên đơn – Bên mua) ký hợp đồng mua bán với Công ty Trung Quốc (Bị đơn – Bên bán). Phía Việt Nam đã nhận hàng nhưng cho rằng hàng không đúng hợp đồng. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng “Bị đơn đã giao cho Nguyên đơn hàng hóa không phù hợp với hợp đồng”.
Tình tiết sự kiện: Công ty nước ngoài (Nguyên đơn) và Công ty Việt Nam (Bị đơn) xác lập hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong hợp đồng, các bên thỏa thuận chọn VIAC. Liên quan đến phí trọng tài, phiên bản bằng tiếng Việt nêu “Án phí và các chi phí liên quan thực hiện quyết định của Tòa án”. Trong Đơn khởi kiện tại VIAC, Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn thanh toán “chi phí trọng tài” và “chi phí khác mà Hội đồng Trọng tài xét thấy phù hợp”. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng “do Nguyên đơn được chấp nhận một phần yêu cầu nên sẽ chịu phí trọng tài đối với phần yêu cầu không được chấp nhận và Bị đơn sẽ chịu phí trọng tài đối với yêu cầu được chấp nhận của Nguyên đơn”.
Tình tiết sự kiện: Công ty V (Nguyên đơn) ký hợp đồng mua cà phê với Công ty Đ (Bị đơn). Các bên thỏa thuận chọn VIAC khi có tranh chấp. Liên quan đến phí trọng tài, Hội đồng Trọng tài quyết định “Nguyên đơn và Bị đơn, mỗi bên phải chịu 50% phí trọng tài”.
Tình tiết sự kiện: Công ty T (Nguyên đơn) ký hợp đồng với Công ty A (Bị đơn) để mua cà phê. Thực hiện hợp đồng, Bên mua (Nguyên đơn) đã ứng một số tiền. Sau đó, do chất lượng cà phê trên thị trường kém nên ngày 15/06/2008, hai Bên ký Biên bản làm việc với nội dung Bị đơn có nghĩa vụ chuyển trả lại số tiền đã nhận và tiền lãi. Ngày 15/11/2009, các Bên lập biên bản xác nhận nợ và Bị đơn ghi nhận còn nợ hơn 5,6 tỷ đồng tiền ứng trước. Ngày 30/11/2011, VIAC nhận được Đơn khởi kiện của Nguyên đơn đề ngày 25/11/2011. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài ra Phán quyết trọng tài theo hướng buộc Bị đơn trả cho Nguyên đơn khoản tiền ứng trước còn thiếu.
Tình tiết sự kiện: Công ty vận tải T (Nguyên đơn – Bên mua bảo hiểm) ký hợp đồng bảo hiểm với Công ty bảo hiểm N (Bị đơn – Bên bảo hiểm). Trong văn thư ngày 26/09/2009, Bên mua bảo hiểm đã thông báo sự cố của tàu cho Bên bảo hiểm. Theo Hội đồng Trọng tài, thời gian từ văn thư đến ngày Bên bảo hiểm khẳng định không bảo hiểm không tính vào thời hiệu khởi kiện.