HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM THEO MÔ HÌNH LUẬT MẪU UNCITRAL

08/12/2023
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Tranh chấp thương mại là một hiện tượng tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường, do tính chất thường xuyên cũng như những hậu quả gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp và cho cả nền kinh tế. Pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này, cũng như các phương thức giải quyết tranh chấp. Theo đó, hiện có 04 phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, bao gồm: thương lượng, hòa giải, tòa án và trọng tài thương mại. Mỗi phương thức có những ưu điểm, hạn chế nhất định, phụ thuộc vào sự lựa chọn của các chủ thể có nhu cầu giải quyết tranh chấp. Trong đó, hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến trên thế giới. Tại các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam hiện nay, thì phương thức này cũng đang được các chủ thể lựa chọn để giải quyết tranh chấp bởi những ưu điểm của nó. Hành lang pháp lý cho phương thức hòa giải thương mại ở Việt Nam hiện nay khá đầy đủ. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của kinh tế - xã hội và ngày càng xuất hiện nhiều tranh chấp thương mại mang tính chất phức tạp thì những quy định về phương thức hòa giải thương mại cần được mở rộng và nâng cấp hơn. Thông qua các quy định của pháp luật Việt Nam hiện này về hòa giải thương mại so với Luật Mẫu Uncitral và mặt khác để phù hợp với bối cảnh, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, nhận thấy cần thiết phải nâng cao hệ thống pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

2. Quy định của pháp luật Việt Nam về hòa giải thương mại so với Luật Mẫu Uncitral.
2.1. Khái niệm hòa giải thương mại
Hòa giải được xem là một phương thức mềm có tính nhân văn và được coi là biện pháp truyền thống để giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Theo từ điển Tiếng việt thì “Hòa giải là thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa”. Theo từ điển Luật học của Black’s Law “Hòa giải là sự can thiệp, sự làm trung gian hòa giải, hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết tranh chấp giữa họ, việc giải quyết tranh chấp thông qua người trung gian hòa giải (bên trung lập)”.
Khái niệm hòa giải thương mại theo pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, chưa đưa ra được định nghĩa cụ thể mà chỉ mang tính khái quát chung. Một trong các tiêu chuẩn chung để các quốc gia trên thế giới có thể thống nhất trong giải quyết tranh chấp đó chính là Luật Mẫu Uncitral. Đây là một khung pháp lý thống nhất giữa các nước về hòa giải, giúp các bên tham gia thủ tục hòa giải tránh bị ảnh hưởng tiêu cực bởi pháp luật của nhà nước. Khuyến khích tất cả các quốc gia xem xét nghiêm túc việc sử dụng và nội luật hóa Luật Mẫu về hòa giải để đảm bảo sự hài hòa trong các quy định về giải quyết tranh chấp và đáp ứng những nhu cầu đặc thù của thực tiễn hòa giải thương mại quốc tế. Theo định nghĩa Luật mẫu của Ủy ban Pháp luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL) về hòa giải thương mại, hòa giải là một quá trình, dù là hòa giải, trung gian hoặc hình thức tương tự, theo đó các bên yêu cầu một bên thứ ba (hòa giải viên) giúp họ đạt được một giải pháp hòa giải tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến một quan hệ hợp đồng hoặc quan hệ pháp lý khác[1]. Với định nghĩa này, Luật Mẫu đã thể hiện bản chất cốt lõi của hòa giải, đây là một quá trình có tính linh hoạt cao, được xác định dựa trên sự thỏa thuận của các bên và có sự có mặt, hướng dẫn của một bên thứ ba là hòa giải viên. Hòa giải viên không có thẩm quyền áp đặt giải pháp đối với tranh chấp giữa các bên liên quan.
Hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp thương mại hiệu quả. Khác với một số quốc gia trên thế giới khi quy định về hòa giải trong một văn bản pháp luật chung về hòa giải, thì Việt Nam quy định hòa giải thương mại trong một nghị định của Chính phủ điều chỉnh quan hệ hòa giải thương mại đó là Nghị định số 22/2017/NĐ- CP về hòa giải thương mại. Theo đó, hoà giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, do các bên thoả thuận và được hoà giải viên thương mại làm trung gian hoà giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp theo quy định của nghị định[2]. Có thể thấy, định nghĩa về hoà giải thương mại của Việt Nam tương ứng với định nghĩa của Luật Mẫu và tương đồng với cách hiểu về “hoà giải” nói chung, nhưng gọi là “hoà giải thương mại” để chỉ hoạt động hoà giải các tranh chấp thương mại và thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản pháp luật về hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại. Hòa giải thương mại không phải là một phương thức có tính chất bắt buộc hay cưỡng chế đối với các bên. Các bên sẽ tự lựa chọn phương thức và hòa giải viên phù hợp để tiến hành giải quyết tranh chấp.
2.2. Phạm vi thẩm quyền hòa giải thương mại
Hòa giải thương mại là một phương thức hòa giải độc lập không phải hình thức giải quyết được kết hợp với trọng tài thương mại hay tòa án. Các bên tranh chấp có quyền tự do lựa chọn hòa giải độc lập để giải quyết tranh chấp của mình. Theo quy định tại Điều 1.1 của Luật Mẫu Uncitral phạm vi giải quyết tranh chấp chỉ áp dụng đối với hòa giải thương mại quốc tế và các thỏa thuận giải quyết quốc tế. Luật Mẫu đã đưa ra một danh sách không đầy đủ về quan hệ thương mại, theo đó thuật ngữ thương mại cần được giải thích theo nghĩa rộng liên quan đến tất cả các vấn đề phát sinh từ các quan hệ có bản chất thương mại, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải quan hệ hợp đồng. Những quan hệ có bản chất thương mại bao gồm nhưng không giới hạn bởi các giao dịch sau: giao dịch thương mại để cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương m ại; hoa hồng; thuê mua; xây dựng công trình; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận thăm dò hoặc khai thác; liên doanh và các hình thức hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh khác; vận tải hàng hoá hoặc hành khách bằng đường hàng không; đường biển, đường sắt hoặc đường bộ.
Đối với pháp luật Việt Nam, Nghị định số 22/2017/NĐ- CP là văn bản pháp lý đầu tiên của Việt Nam điều chỉnh các vấn đề pháp lý liên quan đến hòa giải thương mại. Nghị định quy định phạm vi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại bao gồm: tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; tranh chấp giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng hòa giải thương mại. Phạm vi thẩm quyền của hòa giải thương mại không chỉ bao gồm các tranh chấp thương mại, mà còn mở rộng ra các tranh chấp khác khi pháp luật chuyên ngành có quy định về việc sử dụng phương thức hòa giải thương mại.
Như vậy, cả Luật Mẫu và quy định của pháp luật Việt Nam đều thống nhất phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại là các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Nghị định không giải thích khái niệm hoạt động thương mại mà được xác định trên cơ sở khác của pháp luật. Theo Luật Mẫu thì hoạt động thương mại bao gồm tất cả các vấn đề phát sinh từ các quan hệ có tính chất thương mại cho dù là hợp đồng hay không phải hợp đồng, xây dựng với mục đích hài hòa hóa pháp luật quốc gia. Vì vậy Luật Mẫu cần tạo được cách hiểu thống nhất nhưng linh hoạt đối với các quy định có tính chất nền tảng.
2.3. Thủ tục giải quyết hòa giải thương mại.
Luật Mẫu Uncitral về hòa giải tập trung vào vấn về về thủ tục hòa giải như: bắt đầu thủ tục hòa giải; các phương thức tiến hành hòa giải mà các bên có thể thỏa thuận; lựa chọn hay đình chỉ hòa giải viên; liên hệ giữa hòa giải viên với các bên; cung cấp thông tin, bí mật thông tin; trách nhiệm của hòa giải viên đối với các bên liên quan; chấm dứt thủ tục hòa giải; thi hành thỏa thuận đạt được sau thủ tục hòa giải[3]. Nghị Định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại cũng đã quy định chi tiết về nguyên tắc hòa giải, trình tự thủ tục hòa giải, tiêu chuẩn hòa giải viên, thành lập và hoạt động của tổ chức hòa giải thương mại. Nghị định này đã quy định một cách toàn diện cho phương thức hòa giải. Tuy nhiên so với Luật mẫu cần phải điều chỉnh và bổ sung để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay và trong tương lai.
Theo Luật Mẫu Uncitral, thủ tục hòa giải được coi là bắt đầu vào ngày các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận về việc tiến hành thủ tục hòa giải. Nếu bên đưa ra đề nghị hòa giải không nhận được trả lời đồng ý của bên kia trong vòng 30 ngày kể từ ngày gửi đề nghị hòa giải hoặc trong thời hạn khác được ghi rõ trong đề nghị thì có nghĩa là bên được đề nghị từ chối tiến hành hòa giải[4]. Về bên thứ ba trong hòa giải thương mại – hòa giải viên, không giống với trọng tài thương mại quốc tế, Luật Mẫu quy định việc hòa giải được giải quyết bởi một hòa giải viên duy nhất, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Trên thức tế, cũng có trường hợp các bên tranh chấp sẽ chỉ định hai hoặc nhiều hơn hòa giải viên. Khi tiến hành hòa giải, các bên có quyền lựa chọn phương thức hòa giải, nếu các bên không lựa chọn được phương thức hòa giải thì hòa giải viên có thể tiến hành thủ tục hòa giải theo phương thức mà hòa giải viên cho là phù hợp[5].
Theo pháp luật Việt Nam thì trình tự thủ tục hòa giải thương mại cũng giống Luật Mẫu, quy định hòa giải viên thương mại sẽ do các bên thỏa thuận từ danh sách hòa giải viên của tổ chức hòa giải thương mại hoặc từ danh sách hòa giải viên thương mại vụ việc do Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương công bố[6]. Nguyên tắc thỏa thuận này giúp các bên có thể kiểm soát và tin tưởng vào quá trình hòa giải. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các bên có quyền lựa chọn Quy tắc hòa giải của tổ chức hòa giải thương mại để tiến hành hòa giải hoặc tự thỏa thuận trình tự, thủ tục hòa giải. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về trình tự, thủ tục hòa giải thì hòa giải viên thương mại tiến hành hòa giải theo trình tự, thủ tục mà hòa giải viên thương mại thấy phù hợp với tình tiết vụ việc, nguyện vọng của các bên và được các bên chấp thuận. Trong trường hợp này, hòa giải viên cũng chỉ là chủ thể đưa ra đề xuất về trình tự thủ tục hòa giải, cần xét đến hai yếu tố là tính phù hợp và nguyện vọng của các bên nhưng vẫn cần được sự chấp thuận của các bên tranh chấp. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả và tự quyết trong thủ tục hòa giải thương mại, cũng như các quy định tại Luật Mẫu.
Một trong những đặc điểm quan trọng giúp hòa giải thương mại trở thành phương thức giải quyết tranh chấp được nhiều doanh nghiệp quan tâm đó là tính bảo mật. Theo Luật mẫu về hòa giải, tất cả các thông tin liên quan đến quá trình hòa giải đều phải được giữ bí mật. Việc tiết lộ thông tin chỉ được đặt ra trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc thuộc trường hợp pháp luật quy định hoặc việc tiết lộ đó là cần thiết cho việc thi hành thỏa thuận đạt được sau hòa giải. Theo hướng dẫn của Luật Mẫu đối tượng thông tin được bảo mật phải được hiểu theo nghĩa mở rộng, không chỉ bao gồm các thông tin được tiết lộ trong quá trình hòa giải mà con bao gồm nội dung và kết quả của các thủ tục hòa giải cũng như các vấn đề liên quan. Tại Điều 11 của Luật Mẫu, cung cấp một phạm vi cụ thể về bảo mật thông tin đến quá trình hòa giải khi sử dụng thông tin như những bằng chứng trong các thủ tục tố tụng khác. Theo đó, nhiều thông tin có được trong quá trình hòa giải phải được bảo mật kể cả khi hòa giải không thành và các bên phải tham gia vào một quá trình tố tụng khác để giải quyết tranh chấp. Bảo mật thông tin trong hòa giải thương mại được xem như một nghĩa vụ của hòa giải viên và quá trình hòa giải sẽ được diễn ra cởi mở hơn khi thông tin được đảm bảo giữ bí mật bằng các thiết chế luật định, dễ dàng đạt được các kết quả hòa giải thành hơn.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đây cũng là một trong những nguyên tắc quan trọng của hòa giải. Khoản 2 Điều 4 Nghị định quy đinh “Các thông tin liên quan đến vụ việc hòa giải phải được giữ bí mật, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”. Theo quy định của Luật Mẫu quy định chỉ cần các bên có sự thỏa thuận về việc không bảo mật một thông tin nào đó trong quá trình hòa giải thì thỏa thuận đó sẽ có hiệu lực không phụ thuộc vào hình thức. Theo Nghị định số 22, thỏa thuận về việc từ bỏ quyền được bảo mật đối với một thông tin trong quá trình hòa giải chỉ có hiệu lực khi nó được xác lập bằng hình thức văn bản. Điều này một lần nữa củng cố giá trị chứng cứ của thỏa thuận giữa các bên trong hòa giải thương mại. Nghị định cũng đặc biệt chú trọng đến nghĩa vụ bảo mật thông tin của hòa giải viên. Hòa giải viên vừa có quyền từ chối cung cấp thông tin liên quan đến vụ tranh chấp, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bằng văn bản hoặc theo quy định của pháp luật vừa có nghĩa vụ bảo vệ bí mật thông tin về vụ tranh chấp mà mình tham gia hòa giải, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bằng văn bản hoặc theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, hòa giải viên cũng bị cấm tiết lộ thông tin về vụ việc, khách hàng mà mình biết được trong quá trình hòa giải, trừ trường hợp được các bên tranh chấp đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác. Có thể thấy, Nghị định số 22 đã có những quy định cần thiết để thúc đẩy các bên trao đổi thông tin với hòa giải viên mà họ tin cậy, nhằm giúp quá trình hòa giải được hiệu quả và dễ dàng tiến đến các thỏa thuận hòa giải thành hơn. Tuy nhiên vấn đề đảm bảo tính bí mật của quá trình hòa giải, vấn đề này có thể trở thành rào cản pháp luật lớn nhất đối với sự phát triển của phương thức hòa giải tại Việt Nam. Thực tiễn phát triển của phương thức hòa giải trên thế giới cho thấy, chìa khóa thành công của phương thức này phụ thuộc rất nhiều vào sự cởi mở của các bên trong việc chia sẻ các thông tin liên quan đến vụ tranh chấp. Nếu nguyên tắc bí mật trong hòa giải không được đảm bảo thì các bên khó có thể thẳng thắn trao đổi với nhau và với hòa giải viên về việc giải quyết vụ tranh chấp và quá trình hòa giải sẽ rất dễ đi đến thất bại… Vấn đề đặt ra là liệu các bên có trao đổi thẳng thắn và cởi mở với nhau không nếu như pháp luật không có cơ chế nào để đảm bảo tính bí mật của các thông tin và tài liệu được trong quá trình hòa giải. Mặt khác, pháp luật cũng chưa có quy định cụ thể nào ngăn cấm hòa giải viên vi phạm cam kết của mình và tham gia tố tụng trọng tài hay tố tụng tòa án với tư cách nhân chứng nhằm chống lại một bên.
Theo Điều 17 của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP, thủ tục hòa giải chấm dứt do hai bên đạt được sự đồng thuận trong giải quyết tranh chấp thì việc chấm dứt hòa giải có thể do đề xuất của hòa giải viên hoặc một trong các bên trong chấp. Tuy nhiên đối với hòa giải viên khi đề xuất không tiếp tục hòa giải với cơ sở “xét thấy không cần thiết” thì Nghị định chưa quy định cụ thể thế nào là “cần thiết”.
2.5. Thực hiện kết quả hòa giải thành
Theo Luật Mẫu Uncitral quy định nếu các bên đạt được thỏa thuận giải quyết tranh chấp thì thỏa thuận hòa giải thành đó có hiệu lực bắt buộc đối với các bên và các bên buộc phải thi hành. Luật Mẫu quy định như vậy để nhằm mục đích tăng tính thi hành cho hòa giải và coi thỏa thuận này như một phán quyết trọng tài và cũng nhằm mục đích tránh sự can thiệp của Tòa án vào việc xem xét nội dung của thảo thuận hòa giải dẫn đến mất nhiều thời gian
Đối với pháp luật Việt Nam, Nghị đinh số 22 đáp ứng các nhu cầu cần thiết về khung pháp lý mà phương thức giải quyết tranh chấp này đặt ra. Theo quy định của Nghị định, khi đạt được kết quả của hòa giải thành các bên lập văn bản về kết quả hòa giải thành. Văn bản này có hiệu lực thi hành đối với các bên theo quy định của pháp luật dân sự và văn bản về kết quả hòa giải thành được xem xét công nhận theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, Nghị định lại chưa bao quát vấn đề thi hành thỏa thuận hòa giải thành. Bởi khi các bên đã tham gia vào quá trình hòa giải và đạt được thỏa thuận hòa giải thì việc thỏa thuận này có được thực hiện nay không còn phụ thuộc vào sự tự nguyện của bên phải thi hành và nếu bên phải thi hành không tự nguyện thi hành thì bên còn lại cần phải có một quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa án đề đảm bảo cho thỏa thuận hòa giải thành đó được thực thi như một bản án. Nghị định chưa có quy định nhắc đến nội dung này mà sẽ được đề cập tại Bộ luật tố tụng dân sự. Đây là cơ sở cho phép hoạt động hòa giải được diễn ra một cách hiệu quả nhưng đối với tranh chấp thương mại quốc tế được các bên lựa chọn theo con đường hòa giải thì hiện tại pháp luật Việt Nam chưa có quy định về việc công nhận và cho thi hành thỏa thuận hòa giải thành mang tính quốc tế.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Về cơ bản Nghị định số 22/2017/NĐ–CP đã làm rõ được nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động hòa giải thương mại. Mặc dù có sự nỗ lực trong việc thể chế hóa các quy định pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam, tuy nhiên để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện tại cũng như để sử dụng hiểu quả phương thức giải quyết tranh chấp này thì pháp luật Việt Nam cần bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện hệ thống pháp luật về hòa giải thương mại dựa trên mô hình Luật Mẫu Uncitral.
Thứ nhất: Bổ sung thêm nguyên tắc tự quyết trong giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại. Đây là nguyên tắc phản ánh rõ nhất khác biệt giữa hòa giải thương mại với trọng tài thương mại.
Thứ hai: Làm rõ quy định về trách nhiệm bảo mật thông tin của hòa giải viên trong nguyên tắc hòa giải và học hỏi quy định của Luật mẫu về hoà giải thương mại, bổ sung thêm một trường hợp ngoại lệ thứ ba mà các bên được tiết lộ thông tin, đó là cung cấp thông tin nhằm bảo đảm cho kết quả hòa giải được thực hiện; điều này sẽ giúp kết quả hòa giải được thực thi nhanh chóng và đạt hiệu quả hơn.
Thứ ba: Vấn đề công nhận kết quả thành ngoài tòa án. Xây dựng các quy định về công nhận và cho thi hành thỏa thuận hòa giải thành mang tính quốc tế sẽ là biện pháp hữu hiệu đòi hỏi các bên phải có trách nhiệm với quá trình hòa giải và với thỏa thuận hòa giải thành của mình.
Thứ tư: Hiện nay pháp luật mới chỉ quy định các điều kiện về các bên tranh chấp và đề cập đến các điều kiện về hòa giải viên còn thiếu. Hoàn thiện quy định về hòa giải viên thương mại trong đó cần quy định về tiêu chuẩn của hòa giải viên thương mại, năng lực của hòa giải viên cũng như quyền và nghĩa vụ của rõ ràng hơn.
Thứ năm: Mở rộng các đối tượng được phép thành lập trung tâm hòa giải thương mại như Liên đoàn Luật sư Việt Nam, nghiên cứu các mô hình, trung tâm hòa giải lớn để hoàn thiện tổ chức hòa giải thương mại tại Việt Nam.
Thứ sáu: Thỏa thuận là một trong những yếu tố không thể thiếu của phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại. Do vậy, pháp luật về hòa giải thương mại cần thiết phải bổ sung những quy định rõ ràng về hiệu lực của thỏa thuận hòa giải hoặc bổ sung thêm điều khoản về những trường hợp thỏa thuận hòa giải vô hiệu.
4. Kết luận
Mang nhiều ưu điểm về mặt thời gian và chi phí, hòa giải thương mại đang trở thành lựa chọn hàng đầu cho các bên lựa chọn khi có tranh chấp. Xu hướng sử dụng hòa giải để giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam ngày càng tăng. Do đó, khung pháp luật về hòa giải thương mại Việt Nam cần phải hoàn thiện hơn, khắc phục những vướng mắc, bất cập hiện nay của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP, hướng tới xây dựng Luật hòa giải thương mại với các nội dung mở rộng, có các biện pháp về tài chính, chính sách để khuyến khích cho các hoạt động hòa giải thương mại ở Việt Nam.

 
[1] Điều 1.3, Phần 1, Phụ lục II, Luật Mẫu UNCITRAL về Hòa giải Thương mại Quốc tế và Thỏa thuận Hòa giải Quốc tế, 2018 (sửa đổi Luật mẫu UNCITRAL về Hòa giải Thương mại Quốc tế, 2002).
[2] Khoản 1, Điều 3  Nghị định số 22/2017/NĐ- CP, Nghị định về hòa giải thương mại.
[3] Các Điều từ 4 - 11, Điều 14 Luật mẫu về hòa giải.
[4] Điều 5 Luật Mẫu về hòa giải
[5] Diều 7 Luật Mẫu về hòa giải
[6] Điều 12, Khoản 1 Nghị định 22/2017/NĐ – CP về hòa giải thương mại.

Xem thêm »