Hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp bối cảnh hậu Covid-19 và một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật

29/12/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Trong bối cảnh hầu hết các nước trên thế giới bị ảnh hưởng tiêu cực bởi lạm phát thì tình hình lạm phát tại Việt Nam đang được kiểm soát tốt, chỉ số CPI tăng 2,54% so với cùng kỳ năm trước, các chỉ số kinh tế vĩ mô khác đều được giữ ổn định. Tuy nhiên, cùng với đà tăng tốc của kinh tế, sự phục hồi của doanh nghiệp sản xuất, chế biến chế tạo, xuất khẩu, kinh doanh, thương mại, dịch vụ… những tháng cuối năm cũng được đánh giá có thể tiềm ẩn những rủi ro, đe dọa đến viễn cảnh phục hồi của nền kinh tế và của các khối doanh nghiệp. Bên cạnh đó còn có những thách thức trong nước, bao gồm thiếu hụt lao động, rủi ro lạm phát gia tăng, và rủi ro cao hơn trong khu vực tài chính. Tăng trưởng tín dụng đã tăng mạnh gấp đôi so với cùng kỳ năm trước và nhiều ngân hàng thương mại đã hết hạn mức tín dụng, khó cho vay thêm. Việc tiếp cận gói cấp bù lãi suất 2% vẫn còn nhiều khó khăn vì ngân hàng vừa thiếu hạn mức và siết chặt các thủ tục, việc kiểm soát vốn chặt vào các phân khúc rủi ro của thị trường bất động sản khiến doanh nghiệp trên thị trường và các ngành liên quan cũng gặp khó khăn. Trong 6 tháng qua, gói hỗ trợ lãi suất 2% dù đặt mục tiêu 800.000 tỷ đồng nhưng giải ngân chưa tới 1%. Số tiền lãi được cấp bù mới chỉ hơn 1 tỷ đồng.

1. Những vướng mắc của pháp luật trong hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp bối cảnh hậu Covid-19
Từ thực tiễn hoạt động huy động vốn đã cho thấy hiện nay hoạt động huy động vốn ngày càng có những tín hiệu lạc quan với doanh nghiệp. Huy động vốn khả quan khi nguồn vốn từ xã hội tăng do GDP ngày càng tăng và dòng vốn FDI bổ sung từ bên ngoài làm đáp ứng nhu cầu huy động vốn của doanh nghiệp. Hơn nữa, nhờ sự đổi mới của nhiều quy định pháp luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán... đã tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi, tạo điều kiện tốt để doanh nghiệp huy động vốn. Các quy định pháp luật kinh doanh về huy động vốn của chủ sở hữu, vốn vay hiện nay tương đối thông thoáng nên thực hiện hoạt động này hiệu quả. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện quyền tự do kinh doanh, tự do huy động vốn theo quy định của pháp luật.
Không chỉ có ưu điểm, pháp luật về huy động vốn của doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam còn bộc lộ những điểm hạn chế, bất cập và những khó khăn, vướng mắc chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện để vay vốn tín dụng. Nguồn huy động vốn vay tổ chức tín dụng là hình thức phổ biến mà nhiều doanh nghiệp sử dụng khi có nhu cầu huy động vốn. Hình thức vay vốn tín dụng không giới hạn loại hình doanh nghiệp nào. Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có khả năng huy động vốn vay tín dụng. Huy động vốn tổ chức tín dụng mang lại một khoản vốn nhất định, nhanh chóng và không làm tăng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp khi vay vốn cần đáp ứng các điều kiện ngặt nghèo. Tổ chức tín dụng chỉ cho doanh nghiệp vay vốn nếu có đủ điều kiện giải trình nhu cầu vay vốn để sử dụng mục đích hợp pháp; có phương án sử dụng vốn khả thi; có khả năng tài chính để trả nợ. Thủ tục vay vốn tương đối phức tạp khi doanh nghiệp phải chứng minh được phương án sử dụng vốn và khả năng tài chính để trả nợ. Hơn nữa việc đánh giá mức độ khả thi của phương án sử dụng vốn và khả năng tài chính đối với mỗi trường hợp là khác nhau. Tổ chức tín dụng thường yêu cầu doanh nghiệp có tài sản bảo đảm cho khoản vay thay cho việc chứng minh khả năng tài chính để trả nợ. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay hoặc không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận. Việc thỏa thuận về biện pháp bảo đảm tiền vay do tổ chức tín dụng thỏa thuận với doanh nghiệp. Thông thường ngân hàng thương mại sẽ yêu cầu doanh nghiệp thế chấp tài sản cho khoản vay hoặc có cá nhân hoặc tổ chức khác đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng cần chắc chắn về khả năng thu hồi khoản vay trong trường hợp doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Thực tế khi doanh nghiệp đi vay thường là những doanh nghiệp đang trong tình trạng khó khăn về tài chính không có tài sản để thực hiện hoạt động kinh doanh mới phải đi vay bên ngoài để tiếp tục kinh doanh. Khi yêu cầu doanh nghiệp chứng minh khả năng tài chính để trả nợ là rất khó thực hiện. Do đó, nhiều doanh nghiệp điển hình là các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhu cầu vay vốn ngân hàng không thể thực hiện được.
Thứ hai, tính kém hấp dẫn của các loại chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn được các doanh nghiệp mặc dù là thị trường vốn có khả năng đem lại nguồn vốn lớn cho doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán Việt Nam có quá trình phát triển hơn thập kỷ song chưa thu hút được đông đảo doanh nghiệp gia nhập. Các nhà đầu tư e dè khi đầu tư chứng khoán một phần do tính bất ổn, phức tạp liên quan đến khuôn khổ pháp lý. Khi nhà đầu tư mua chứng khoán là cổ phiếu các loại, nhà đầu tư thường quan tâm đến quyền lợi được hưởng khi trở thành cổ đông của công ty. Mặc dù Luật Doanh nghiệp 2020 đã có những thay đổi nhất định tuy nhiên vẫn có những quy định chưa được đầy đủ hoặc chưa được quy định cụ thể hoặc trường hợp quy định nhưng chưa có văn bản nào hướng dẫn nên không thể áp dụng được. Trường hợp bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số như khoản 2 Điều 115 Luật Doanh nghiệp 2020 đã quy định nhóm cổ đông sở hữu từ 5% cổ phần trong công ty có những quyền lợi ưu tiên hơn so với cổ đông phổ thông. Các quyền cụ thể của nhóm cổ đông sở hữu từ 5% cổ phần trong công ty có các quyền lợi như cổ đông sở hữu cổ phần phổ thông thường nhưng ngoài ra có thể: Xem xét, tra cứu, trích lục số biên bản và nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm, báo cáo của Ban kiểm soát, hợp đồng, giao dịch phải thông qua Hội đồng quản trị và tài liệu khác, trừ tài liệu liên quan đến bí mật thương mại, bí mật kinh doanh của công ty; Yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này; Yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết. Yêu cầu phải bằng văn bản và phải bao gồm các nội dung sau đây: họ, tên, địa chỉ liên lạc, quốc tịch, số giấy tờ pháp lý của cá nhân đối với cổ đông là cá nhân; tên, mã số doanh: nghiệp hoặc số giấy tờ pháp lý của tổ chức, địa chỉ trụ sở chính đối với cổ đông là tổ chức; số lượng cổ phần và thời điểm đăng ký cổ phần của từng cổ đông, tổng số cổ phần của cả nhóm cổ đông và tỷ lệ sở hữu trong tổng số cổ phần của công ty; vấn đề cần kiểm tra, mục đích kiểm tra.
Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp cũng chưa có những chuẩn mực về công khai, minh bạch thông tin doanh nghiệp, lượng thông tin bắt buộc phải cung cấp khi có yêu cầu là rất hạn chế. Theo thông lệ quốc tế có hai nhóm thông tin về tương lai rất quan trọng đối với nhà đầu tư. Thứ nhất, nhóm thông tin về đánh giá của Hội đồng quản trị như: về thay đổi thị trường sản phẩm, thị trường đầu ra của công ty, những tác động của thị trường vốn và những yếu tố khác. Thứ hai, nhóm thông tin về Hội đồng quản trị như: thành viên Hội đồng quản trị có sở hữu bao nhiêu phần trăm trong công ty và những công ty khác, năng lực kinh nghiệm của Hội đồng quản trị, ai giới thiệu vào Hội đồng quản trị. Những thông tin này không những giúp nhà đầu tư đánh giá được năng lực của đội ngũ Hội đồng quản trị, mà còn đánh giá được tính khách quan, công bằng, vô tư không thiên vị trong hoạt động kinh doanh. Đối với các nhà đầu tư hai nhóm thông tin về tương lai rất trọng, bởi có như vậy thì mọi giao dịch của công ty, kể cả giao dịch chuyển nhượng cổ phần của thành viên Hội đồng quản trị mới minh bạch và công bằng. Đối với các doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân cũng nên minh bạch thông tin vì những đối tượng như chủ nợ, tổ chức tín dụng... cũng cần nắm được những thông tin nhất định của công ty để quyết định việc cho vay hay không.
Thứ ba, huy động vốn thông qua hình thức cho thuê tài chính. Theo quy định tại khoản 2 Điều 128 Luật các tổ chức tín dụng 2010 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 thì số vốn đầu tư cho các doanh nghiệp đi vay không thể vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Về phía pháp luật điều chỉnh hoạt động các tổ chức tín dụng quy định này nhằm bảo đảm an toàn tài chính cho các công ty cho thuê tài chính nhưng về phía doanh nghiệp quy định này lại làm giảm khả năng huy động vốn thông qua hình thức cho thuê tài chính từ công ty cho thuê tài chính. Trên thực tế các quy định này đang làm cản trở hoạt động vay vốn của doanh nghiệp từ các công ty cho thuê tài chính. Đối với các doanh nghiệp không đáp ứng được các điều kiện vay vốn của ngân hàng đặc biệt là các điều kiện về tài sản thế chấp hay chứng minh năng lực tài chính để trả khoản vay thì khi đó các công ty tài chính là phương án doanh nghiệp có thể tìm đến. Với nhiều ưu điểm như điều kiện vay đơn giản, doanh nghiệp đi vay không cần có các tài sản thế chấp, doanh nghiệp được đưa ra yêu cầu với tài sản thuê... hình thức cho thuê tài chính là hình thức huy động vốn bằng tài sản nên được sử dụng phổ biến hơn. Mặc dù vậy thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp không mấy quan tâm đến dịch vụ này. Các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn thường tìm đến các ngân hàng thương mại khi có nhu cầu về vốn để tiếp tục hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh. Có thể thấy huy động vốn thông qua hợp đồng vay với ngân hàng thương mại là thói quen của nhiều doanh nghiệp. Hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ của doanh nghiệp cho thuê tài chính còn kém, giá cho thuê (gồm cả tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí bảo hiểm...) còn cao vì thế các doanh nghiệp vẫn chưa “mặn mà” với hình thức huy động vốn này.
Thứ tư, việc thông tin chưa được truyền tải đầy đủ, quảng bá rộng rãi tới nhà đầu tư, doanh nghiệp chưa biết vận dụng kênh website của công ty như một lợi thế truyền tải thông tin đến nhà đầu tư mặc dù đây là một kênh bắt buộc sử dụng nếu muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng. Tình trạng này dẫn đến hậu quả các công ty niêm yết trên thị trường đều là các công ty nhỏ có quy mô vốn vài chục tỷ đồng chưa có đủ sức thu hút nhà đầu tư. Mặt khác, các nhà đầu tư khó khăn khi tìm hiểu thông tin về doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp chưa có website bằng tiếng anh dẫn đến các nhà đầu tư nước ngoài khó tiếp cận thông tin doanh nghiệp. Việc phát hành chứng khoán ra thị trường quốc tế đang được thử nghiệm. Phát hành trái phiếu quốc tế là xu hướng cần thiết và tích cực trong hoàn cảnh các nguồn vốn khác ngày càng nan giải. Tuy nhiên, các chuẩn mực kế toán của Việt Nam còn khác biệt so với thế giới. Muốn đưa được chứng khoán Việt Nam ra thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải chuyển đổi báo cáo tài chính và hàng loạt các báo cáo quản trị nội bộ phải đáp ứng yêu cầu của thị trường trong khi đó nguồn nhân lực của Việt Nam không đủ đáp ứng yêu cầu mặt khác nếu thuê ngoài thì gánh chịu chi phí lớn.
Thứ năm, quy định của pháp luật còn chồng chéo và nhiều quy định chưa thực sự hợp lý. Theo điểm c khoản 1 Điều 121 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định cổ phần phải có mệnh giá, còn gọi là giá trị danh nghĩa nhưng lại không có quy định nào cấm công ty cổ phần chào bán cổ phần dưới mệnh giá, mà cũng không có quy định nào áp đặt nghĩa vụ tài chính lên các cổ đông đã mua cổ phần chào bán dưới mệnh giá. Cổ phần có hai loại giá là mệnh giá cổ phần ghi trên cổ phiếu và giá thị trường. Mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá cổ phần được ghi trên cổ phiếu. Luật Doanh nghiệp không quy định mệnh giá mỗi cổ phần tuy nhiên theo Luật Chứng khoán 2019, mệnh giá cổ phiếu, chứng chỉ quỹ chào bán lần đầu ra công chúng là mười nghìn đồng. Mặt khác giá thị trường của cổ phần là giá sử dụng khi chào bán, chuyển nhượng cổ phần. Giá thị trường của cổ phần cao hay thấp phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh, tiềm lực của công ty phát hành cổ phần. Luật Doanh nghiệp 2020 không có quy định nào về cấm doanh nghiệp chào bán dưới hoặc lớn hơn mệnh giá ghi trên cổ phần hoặc chuyển nhượng cổ phần do đó quy định về mệnh giá cổ phần trong Luật Doanh nghiệp 2020 trở nên vô nghĩa. Nhà đầu tư hay cổ đông khi sở hữu trái phiếu cũng chỉ quan tâm đến giá thị trường của trái phiếu mà ít khi quan tâm đến giá ghi trên cổ phiếu. Do đó, bỏ những quy định không cần thiết cũng giúp cho doanh nghiệp dễ dàng hơn khi thực hiện huy động vốn.
Với những khó khăn và thuận lợi như vậy cần có những giải pháp từ doanh nghiệp cũng như hoàn thiện khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của doanh nghiệp
Trên nguyên tắc, việc hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo sự phù hợp với đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Xu hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới đặt ra yêu cầu cần phải dần xóa bỏ sự khác biệt không cần thiết trong pháp luật quốc gia so với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, nhất là trong lĩnh vực pháp luật về doanh nghiệp nói chung và huy động vốn nói riêng. Các chuẩn mực chung của thương mại quốc tế đang được Việt Nam từng bước áp dụng trong các mảng quy định pháp luật. Tuy nhiên, để học hỏi kinh nghiệm của pháp luật các nước và pháp luật quốc tế một cách có chọn lọc và hiệu quả, đòi hỏi chúng ta phải có những nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về từng hệ thống pháp luật, về bản chất, cấu trúc, phương thức vận hành của nó, điều kiện kinh tế xã hội mà nó sinh ra và tồn tại. Luôn áp điều kiện hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử cụ thể, không vận dụng một cách máy móc kinh nghiệm nước ngoài vào giải quyết vấn đề quốc gia. Mặc dù các quy định pháp luật quốc tế hay của quốc gia khác có thể tiến bộ hơn ở Việt Nam nhưng điều kiện hoàn cảnh chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa của mỗi quốc gia là khác nhau nên không thể áp dụng ngay những quy định tham khảo được về Việt Nam mà nên có sự chọn lọc nhất định. Ngoài ra, các quy định của pháp luật phải phù hợp với tình hình thực tiễn thì quy định pháp luật mới có khả năng thực thi. Tuy nhiên, thực tiễn luôn luôn vận động và không ngừng thay đổi đòi hỏi pháp luật cần có tính dự liệu cao những thay đổi có thể xảy ra đồng thời cũng cần có những thay đổi phù hợp với thực tiễn.
Xuất phát từ các yêu cầu cơ bản nói trên, việc hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của doanh nghiệp cần lưu ý một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về quyền tự do kinh doanh nói chung và quyền huy động vốn đối với các loại hình doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về đảm bảo quyền tự do kinh doanh về cơ bản đã thực hiện được song vẫn bị hạn chế do các rào cản chưa được đảm bảo thực sự, thủ tục hành chính còn gây ra nhiều khó khăn cho việc tự do kinh doanh của người dân. Do đó, quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh cần được đảm bảo tối ưu hơn nữa trong các quy định về phát hành cổ phần, trái phiếu. Cụ thể, nên bỏ quy định ghi mệnh giá cổ phần trên cổ phiếu. Mệnh giá một cổ phần được ghi trên mỗi cổ phiếu thực sự không cần thiết. Trong các giao dịch chuyển nhượng cổ phần bên mua và bên bán chỉ quan tâm đến giá thị trường của cổ phần. Mệnh giá chỉ làm phức tạp thêm các quy định về chứng khoán áp dụng cho cổ phần. Chính vì vậy nên bỏ quy định về mệnh giá cổ phần đối với công ty đại chúng quy định trong Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp.
Thứ hai, bổ sung quy định xác định lãi suất khi phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Hiện nay mức lãi suất được doanh nghiệp xác định dựa trên giá lãi suất cho vay trên thị trường. Nhiều trường hợp lãi suất doanh nghiệp đưa ra chưa đủ hấp dẫn khiến các nhà đầu tư ái ngại khi mua trái phiếu và quyết định không đầu tư. Lãi suất của trái phiếu có thể thay đổi theo những biến động giá cả trên thị trường tuy nhiên pháp luật nên quy định cơ sở để xác định lãi suất trái phiếu từ đó giúp các doanh nghiệp có một cơ sở chung để xác định lãi suất trái phiếu khi phát hành. Mặt khác, đối với một loại trái phiếu của doanh nghiệp trên thị trường khó xác định mức độ an toàn của trái phiếu của doanh nghiệp do thiếu tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín, còn tiềm ẩn rủi ro về thanh khoản, về giảm giá trị doanh nghiệp không thể trả nợ đúng hạn. Do đó, pháp luật nên bổ sung quy định thành lập và quản lý tổ chức xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp từ đó đánh giá được năng lực tài chính hay khả năng chi trả cho trái phiếu khi đáo hạn.
Thứ ba, đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các chủ thể huy động vốn. Hiện nay môi trường cạnh tranh chưa bình đẳng do vẫn còn tồn tại sự phân biệt vốn trong nước và vốn nước ngoài nên dẫn đến hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp cũng bị phân biệt. Luật đầu tư 2020 mặc dù có nhiều quy định ưu đãi và khuyến khích đầu tư nước ngoài nhưng cũng có nhiều quy định về mặt thủ tục rườm rà với nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam nhưng thủ tục góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp lại rườm rà và mất thời gian. Luật Đầu tư nên giảm bớt thời gian đăng ký mua vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài khi nhà đầu tư thực hiện góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài; hay việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên của tổ chức kinh tế. Theo quy định thời gian được chấp thuận mua vốn góp là 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Để nâng cao khả năng huy động vốn từ nguồn đầu tư nước ngoài thì việc giảm thời gian cho các thủ tục hành chính cũng một phần nào khuyến khích đầu tư.
Thứ tư, cần thống nhất các thủ tục đầu tư với các quy định về chuyển ngoại tệ của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Theo quy định của Thông tư 06/2019/TT-NHNN ngày 26/06/2019 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam khi thực hiện việc góp vốn đầu tư bằng tiền của nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư Vệt Nam phải được thực hiện thông qua hình thức chuyển khoản vào tài khoản vốn đầu tư trực tiếp. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư Việt Nam trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện góp vốn đầu tư bằng ngoại tệ hoặc bằng đồng Việt Nam theo mức vốn đầu tư tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới được thực hiện việc chuyển tiền và sử dụng tiền thu được từ việc bán cổ phần, phần vốn góp. Trong khi đó khi tiến hành thủ tục đầu tư và thủ tục đăng ký thay đổi thông tin đăng ký doanh nghiệp lại yêu cầu hoàn thành thủ tục góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp. Như vậy đang có sự chồng chéo giữa quy định về ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước và quy định của Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp. Quy định pháp luật chồng chéo khiến doanh nghiệp lúng túng trong quá trình hoàn tất hoạt động huy động vốn vừa gây mất nhiều thời gian trong khi đó doanh nghiệp có những dự án cần nguồn vốn gấp để sử dụng. Do đó, nên thống nhất các quy định giữa các cơ quan nhà nước và đơn giản hơn thủ tục đăng ký kinh doanh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế nên tạo môi trường bình đẳng trong cạnh tranh đầu tư là yêu cầu cơ bản. Vì thế Luật Doanh nghiệp cần có những quy định tạo sự bình đẳng cho các nhà đầu tư là doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức khác trong nước với nước ngoài.
Thứ năm, pháp luật nên tạo cơ chế để các doanh nghiệp có thể liên kết với nhau hình thành những tập đoàn kinh tế, công ty lớn, tạo mối liên kết máu thịt giữa các doanh nghiệp để thực hiện việc sản xuất kinh doanh nhưng không phải bỏ vốn ra. Các công ty trong cùng một tập đoàn có thể thực hiện nhiều khâu khác nhau của chu trình thương mại như doanh nghiệp này thu mua nguyên liệu, doanh nghiệp khác tiến hành chế biến và một doanh nghiệp khác tiến hành phân phối sản phẩm. Cơ chế liên doanh, liên kết sẽ giúp cho các doanh nghiệp có thể hỗ trợ nguồn vốn cho nhau giữa các công ty trong một tập đoàn hoặc các công ty con với công ty mẹ. Mặt khác, việc huy động vốn giữa các công ty trong cùng nhóm công ty cũng đơn giản trong quá trình hạch toán vốn của doanh nghiệp. Bên cạnh việc đẩy mạnh cơ chế liên kết giữa các công ty doanh nghiệp có thể sử dụng các phương thức thương mại để tận dụng nguồn vốn từ hoạt động mua bán hàng hóa. “Các doanh nghiệp có thể vận dụng linh hoạt các hình thức huy động vốn khác như tín dụng thương mại hay phương thức bù trừ không dùng tiền mặt nhưng về mặt kế toàn vẫn là hạch toán độc lập. Thông qua hoạt động này tạo tiền đề cho sự phát triển tín dụng thương mại chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp với nhau một cách hợp pháp trong nền kinh tế. Nguồn vốn này sẽ giúp các doanh nghiệp đạt hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh./.

Xem thêm »