Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại qua Tòa án bối cảnh hậu Covid-19 và một số kỹ năng

22/12/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Tranh chấp hợp đồng thương mại xảy ra ở nhiều dạng khác nhau trong thực tiễn. Sự đa dạng của tranh chấp là đều dễ hiểu bởi hoạt động giao kết và thực hiện hợp đồng của các chủ thể trong các giao dịch hết sức phong phú. Tranh chấp thường hình thành từ sự vi phạm cam kết nhưng không phải sự vi phạm cam kết nào cũng dẫn đến tranh chấp. Tranh chấp hợp đồng phải hội tụ đủ các yếu tố sau: Có quan hệ hợp đồng tồn tại giữa các bên; Có sự vi phạm nghĩa vụ (hoặc cho rằng là vi phạm nghĩa vụ) của một bên trong quan hệ; Có sự bất đồng ý kiến của cá bên về sự vi phạm hoặc xử lý hậu quả phát sinh từ sự vi phạm. Tranh chấp là các xung đột, mâu thuẫn phát sinh giữa các bên do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Theo Luật Thương mại có các cách giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng sau đây: (i) Thương lượng giữa các bên; (ii) Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải; (iii) Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án. Như vậy, theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, khi xảy ra tranh chấp kinh doanh, các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương lượng với nhau. Trong trường hợp, không thương lượng được với nhau, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh có thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương thức hoà giải, trọng tài hoặc toà án nhân dân. Vấn đề lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh phù hợp cần được các bên cân nhắc, lựa chọn trên hàng loạt các yếu tố như mục tiêu cần đạt được, bản chất của tranh chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí dành cho việc giải quyết tranh chấp … Chính vì vậy, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên cần hiểu rõ bản chất và cân nhắc các ưu điểm, nhược điểm của mỗi phương thức để có quyết định hợp lý. Trường hợp vụ việc giải quyết tại Tòa án thì có một số ưu, nhược điểm và các kỹ năng xử lý như sau:

1. Toà án là cơ quan xét xử của Nhà nước, nhân danh nước CHXHCN Việt Nam quyết định đưa vụ tranh chấp ra xét xử theo trình tự tố tụng dân sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự
Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại Toà án nhân dân có ưu điểm nhất định như: Toà án là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước nên bảo đảm tính cưỡng chế đối với phán quyết của toà án đối với các bên; với nguyên tắc xét xử hai cấp (sơ thẩm và phúc thẩm) thì những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp có thể được phát hiện và khắc phục. Tuy nhiên, phương thức toà án thường chỉ là phương thức cuối cùng, được lựa chọn bất đắc dĩ không thể tiến hành giải quyết tranh chấp bằng các phương thức khác. Điều này có thể lý giải những điểm sau đây:
Thứ nhất, thủ tục tố tụng tại toà án thiếu tính linh hoạt. Một khi đã đưa tranh chấp ra xét xử tại toà án nhân dân thì các bên phải chấp nhận một thủ tục tố tụng chung được quy định trong pháp luật quốc gia, không có bất kỳ sự lựa chọn nào khác. Thủ tục tố tụng toà án thường kéo dài, phức tạp và khó dự đoán về kết quả.
Trong thủ tục xét xử ở Toà án, các bên không có cơ hội để lựa chọn cho mình một ngươì xét xử mà do Toà án chỉ định. Thẩm phán được chỉ định xét xử có thể là người có năng lực nhưng cũng có trường hợp thẩm phán lại thiếu năng lực làm ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, thủ tục tố tụng của Toà án quy định nguyên tắc xét xử công khai, có nghĩa là bất cứ ai cũng có thể tham dự phiên Toà. Điều này không bảo đảm nguyện vọng của các bên trong trường hợp cần giữ kín những thông tin liên quan đến hoạt động của mình.
Thứ ba, thẩm quyền của Toà án bị hạn chế theo lãnh thổ. Toà án là cơ quan tài phán nhà nước hoạt động theo nguyên tắc chủ quyền quốc gia, có nghĩa là toà án chỉ có thể giải quyết tranh chấp trọng phạm vi lãnh thổ quốc gia mình mà không thể giải quyết tranh chấp thuộc quyền tài phán của quốc gia khác, thậm chí trong một quốc gia thì toà án của địa phương này cũng không được giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án ở địa phương khác. Hay nói cách khác, trong tố tụng toà án thì đương sự, về nguyên tắc, không có quyền chọn lựa toà án cũng như đích danh Thẩm phán nào tham gia xét xử.
Tuy nhiên trên thực rế hiện nay, rất nhiều tranh chấp hợp đồng được giải quyết bằng con đường Tòa án. Khi tư vấn, giải quyết tranh chấp tranh chấp hợp đồng bằng con đường Tòa án cần chú ý các nội dung sau:
2. Kỹ năng áp dụng pháp luật nội dung và các nguồn bổ trợ khác của pháp luật
Xác định đúng luật nội dung và các nguồn bổ trợ khác của pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại có ý nghĩa quan trọng trong việc thu thập, cung cấp chứng cứ, soạn thảo bản luận cứ... bảo vệ quyền lợi cho Doanh nghiệp và là một trong yếu tố quyết định thành công của cán bộ pháp chế, góp phần cho việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại được đúng đắn, chính xác.
2.1. Kỹ năng áp dụng pháp luật nội dung
Các văn bản quy phạm pháp luật nội dung điều chỉnh quan hệ hợp đồng thương mại bao gồm: i) Hệ thống luật chung về Hợp đồng – Bộ luật Dân sự, trong đó Bộ luật Dân sự quy định về bản chất của hợp đồng và nguyên tắc giao kết hợp đồng; Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và các trường hợp hợp đồng vô hiệu; Đại diện và ủy quyền ký kết hợp đồng; Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng… ii) Hệ thống luật chuyên ngành – Luật Thương mại và các luật khác có liên quan, trong đó quy định các điều kiện cụ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng; quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên; một số trường hợp vô hiệu cụ thể; hình thức hợp đồng, thủ tục đăng ký hợp đồng.
Mặt khác, xuất phát từ tính đặc thù của điều kiện chính trị, lịch sử, kinh tế, xã hội của nước ta nên các văn bản pháp luật nội dung được áp dụng để giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự có sự thay đổi qua các thời kỳ khác nhau. Chẳng hạn, đối với các tranh chấp hợp đồng thương mại phát sinh từ ngày 01/1/2006 đến ngày 31/12/2016 sẽ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005 và luật chuyên ngành liên quan đến hợp đồng đó. Đối với các tranh chấp hợp đồng thương mại phát sinh từ ngày 01/1/2017 trở đi sẽ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005 và luật chuyên ngành liên quan đên hợp đồng đó.
Với đặc điểm về luật nội dung áp dụng trong giải quyết tranh chấp thương mại đòi hỏi cán bộ pháp chế tham gia tư vấn, giải quyết tranh chấp dân sự phải có phương pháp xác định được các nguyên tắc áp dụng pháp luật nội dung. Thông thường, văn bản pháp luật nội dung áp dụng để giải quyết tranh chấp hợp đồng là pháp luật hợp đồng có hiệu lực tại thời điểm hợp đồng được xác lập, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, cần lưu ý các nguyên tắc áp dụng luật nội dung giải quyết tranh chấp hợp đồng, cụ thể:
- Bộ luật Dân sự là luật chung. Tùy theo, quan hệ hợp đồng tranh chấp mà xác định văn bản pháp luật chuyên ngành. Nguyên tắc áp dụng luật chung, luật chuyên ngành là “riêng phủ định chung”.
- Áp dụng luật theo hiệu lực về thời gian của văn bản pháp luật.
- Áp dụng luật theo hiệu lực về không gian của văn bản pháp luật.
- Áp dụng luật theo cơ quan ban hành văn bản pháp luật.
Yêu cầu đặt ra đối với cán bộ pháp chế là phải hiểu rõ các quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và quy định cụ thể của từng văn bản pháp luật về việc áp dụng luật. Xác định được chính xác, đúng, đủ luật nội dung áp dụng giải quyết hợp đồng đòi hỏi cán bộ pháp chế phân tích được trong vụ án tranh chấp hợp đồng có bao nhiêu quan hệ pháp luật cần giải quyết, các tình tiết, sự kiện pháp lý nào đã được xác lập, thực hiện; thời điểm xảy ra các tình tiết, sự kiện pháp lý; tài liệu, chứng cứ chứng minh các tình tiết, sự kiện đó như thế nào từ đó tìm kiếm các văn bản pháp luật áp dụng phù hợp.
2.2. Kỹ năng áp dụng các nguồn bổ trợ khác của pháp luật
Hệ thống pháp luật của một quốc gia hoặc pháp luật quốc tế dù hoàn thiện đâu cũng không thể điều chỉnh được hết mọi quan hệ xã hội trong đời sống. Nguồn cơ bản là pháp luật có thể xác định rõ ràng để áp dụng giải quyết tranh chấp dân sự. Tuy nhiên, giải quyết các vụ việc dân sự còn có những vấn đề luật không quy định hoặc không dễ dàng áp dụng luật nên Tòa án phải dựa vào các nguồn bổ trợ của pháp luật để đảm bảo việc xét xử được chính xác, khách quan. Nguồn bổ trợ của pháp luật theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Bộ luật Dân sự 2015 bao gồm: tập quán; tương tự pháp luật; các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Bộ luật Dân sự 2015 thì:“tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” (khoản 2, Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). Đây là quy định bổ sung mang tính đột phá của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Quy định này đưa ra công thức trong xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, bảo đảm quyền tiếp cận công lý của chủ thể quan hệ pháp luật, phù hợp với quy định của Hiến pháp 2013 về quyền con người và quyền tư pháp.
Áp dụng đúng, đủ, chính xác các nguồn bổ trợ của pháp luật, cán bộ pháp chế cần nghiên cứu nắm vững các quy định Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự , Điều 5, 6 Bộ luật Dân sự 2015 và các quy định khác có liên quan đến giải quyết vụ án cụ thể mà mình tham gia, đồng thời phải am hiểu về tập quán trong nước và quốc tế; biết phân tích và áp dụng tương tự pháp luật, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật; biết phân tích và viện dẫn án lệ, phân tích và áp dụng lẽ công bằng.
+ Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự.
+ Lẽ công bằng được quy định tại Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:“được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó”.
+ Án lệ của Việt Nam:“là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử” (Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28 tháng 10 năm 2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Để có kỹ năng tra cứu án lệ,cán bộ pháp chế cần lưu ý: án lệ sẽ luôn được công bố và hủy bỏ và được đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao; được đưa vào Tuyển tập án lệ xuất bản theo định kỳ 12 tháng. Ngày 06 tháng 4 năm 2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định số 220/ QĐ-CA quyết định về việc công bố 06 án lệ.
Ngoài ra, khi áp dụng các nguồn bổ trợ của pháp luật khi tham gia giải quyết tranh chấp hợp đồng cán bộ pháp chế còn phải nắm vững được thứ tự áp dụng các nguồn bổ sung của pháp luật. Theo đó, tập quán được áp dụng trong trường hợp các bên không có thoả thuận, pháp luật không quy định và không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật. Trường hợp không có không có thoả thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng tương tự. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng.
3.2. Kỹ năng trao đổi về nội dung hợp đồng và tư vấn, khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng
3.2.1. Kỹ năng trao đổi về nội dung tranh chấp hợp đồng
Sự tham gia của cán bộ pháp chế trong giai đoạn khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp xác định những thuận lợi, khó khăn khi khởi kiện, từ đó tư vấn cho doanh nghiệp quyết định khởi kiện hay không khởi kiện. Nếu doanh nghiệp quyết định khởi kiện, cán bộ pháp chế thực hiện việc thu thập tài liệu, chứng cứ. Tài liệu, chứng cứ khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng là cơ sở Tòa án thụ lý yêu cầu khởi kiện. Trong trường hợp doanh nghiệp là bị đơn mà có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, cán bộ pháp chế thực hiện việc thu thập tài liệu, chứng cứ để đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập.
Cán bộ pháp chế cần xác định được các tình tiết của hợp đồng: Thời điểm giao kết hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, tính hợp pháp của các điều khoản của hợp đồng... Tiếp theo, cán bộ pháp chế cần để xác định được đầy đủ nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, nội dung tranh chấp, bối cảnh của tranh chấp hợp đồng, cũng như mong muốn, nguyện vọng, yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp. Trong trường hợp người đại diện của doanh nghiệp đưa ra những mong muốn yêu cầu mâu thuẫn hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc không đảm bảo được lợi ích của doanh nghiệp, cán bộ pháp chế cần phân tích để người đại diện của doaanh nghiệp biết được doanh nghiệp có quyền yêu cầu như thế nào, khả năng yêu cầu nào được chấp nhận, yêu cầu nào không được chấp nhận hoặc yêu cầu nào được chấp nhận một phần, yêu cầu nào được chấp nhận toàn bộ.
Cần sử dụng kỹ năng hỏi và đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ doanh nghiệp cung cấp, xác định được các tình tiết cơ bản của tranh chấp hợp đồng để có những đánh giá sơ bộ ban đầu về những vấn đề cần phải giải quyết. Đồng thời, cần phân tích các tài liệu, chứng cứ mà doanh nghiệp cung cấp, đối chiếu với các tình tiết của tranh chấp hợp đồng để tìm ra phương án tốt nhất, tư vấn chính xác cho họ về yêu cầu. Tùy thuộc doanh nghiệp là người khởi kiện hay bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để thực hiện các kỹ năng tiếp xúc, trao đổi phù hợp
Tóm lại qua tiếp xúc, trao đổi thông tin với người đại diện của doanh nghiệp, cán bộ pháp chế cần làm rõ được những nội dung chính sau:
- Quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp về hợp đồng gì?
- Thời điểm xác lập quan hệ hợp đồng và thời điểm phát sinh tranh chấp.
- Quan hệ tranh chấp hợp đồng đã được giải quyết như thế nào?
- Yêu cầu, nguyện vọng cụ thể của doanh nghiệp là gì?
3.2.2. Kỹ năng trao đổi và tư vấn yêu cầu khởi kiện của doanh nghiệp là nguyên đơn trong vụ tranh chấp về hợp đồng thương mại.
Ngoài các kỹ năng trao đổi về nội dung hợp đồng, kỹ năng trao đổi, tư vấn yêu cầu khởi kiện cho doanh nghiệp có những điểm khác biệt. Sau khi cán bộ pháp chế xâu chuỗi các tình tiết và bước đầu xác định nội dung tranh chấp hợp đồng thì cần phân tích, xác định điều kiện khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng. Quy định tại Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và quy định của pháp luật nội dung là căn cứ pháp lý để cán bộ pháp chê xác định điều kiện khởi kiện. Bao gồm các điều kiện sau:
- Doanh nghiệp có quyền khởi kiện hay không ? Thông thường, trong lĩnh vực tranh chấp hợp đồng thương mại, doanh nghiệp là người khởi kiện vì lợi ích của chính mình .
- Xác định tư cách pháp lý của người thực hiện việc khởi kiện; Thông thường người ký đơn khởi kiện phải là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người được người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ủy quyền hợp pháp.
- Xác định yêu cầu khởi kiện có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo loại việc không ? Thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh hay cấp huyện và Tòa án cụ thể nào?
- Yêu cầu của doanh nghiệp đã được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác (trừ trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
- Yêu cầu của doanh nghiệp có phải thực hiện các thủ tục tiền tố tụng hay không ?
- Địa chỉ của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Điều kiện về tài chính (xác định tiền tạm ứng án phí, chi phí tố tụng khác...);
- Thời hiệu khởi kiện có còn không ? Mặc dù, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 khi xem xét đơn khởi kiện chưa xem xét đến điều kiện về thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, do sau khi thụ lý vụ việc, nếu thời hiệu khởi kiện hết và một bên hoặc các bên yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nên cán bộ pháp chế giải thích rõ cho doanh nghiệp về vấn đề này.
Sau khi đánh giá xác định điều kiện khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng, cán bộ pháp chế cần phân tích các ưu điểm cũng như phương án thương lượng, hòa giải ngoài tố tụng giữa bên tranh chấp cho doanh nghiệp để doanh nghiệp lựa chọn cách thương lượng, hòa giải ngoài tố tụng hay khởi kiện vụ án dân sự. Cần lưu ý rằng khởi kiện là một quyền của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp có thể không thực hiện quyền đó mà vẫn bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trường hợp doanh nghiệp quyết định không khởi kiện mà lựa chọn một phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác thì cán bộ pháp chế thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp. Ví dụ: Giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài. Trường hợp có đủ điều kiện khởi kiện, cán bộ pháp chế cần phân tích cho doanh nghiệp những điểm lợi thế và bất lợi của việc khởi kiện cũng như quyền lợi của doanh nghiệp, khả năng Tòa án chấp nhận yêu cầu của doanh nghiệp đến đâu và khả năng của bản án được đưa vào thi hành trong thực tế như thế nào? Việc khởi kiện hay không khởi kiện thuộc quyền tự định đoạt của các doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp cán bộ pháp chế cần chỉ ra cho doanh nghiệp thấy rằng khởi kiện là một quyền của họ và nếu họ không thực hiện quyền đó thì không còn phương cách nào để bảo vệ quyền lợi của họ, cũng như nếu họ không thực hiện ngay quyền đó thì quyền lợi đó cũng có thể bị mất đi cùng với thời gian (Ví dụ: hết thời hiệu khởi kiện). Đa phần các doanh nghiệp quan tâm là họ được lợi bao nhiêu hay không được lợi gì trong trường hợp họ khởi kiện. Do đó, cán bộ pháp chế là người không những chỉ xác định được các căn cứ pháp lý, căn cứ thực tế để khởi kiện mà còn phải hiểu được nhu cầu, mong muốn của doanh nghiệp.
 Nếu doanh nghiệp quyết định việc khởi kiện, cán bộ pháp chế tư vấn cho doanh nghiệp về tài liệu, chứng cứ cần thiết nộp để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và bảo đảm được tốt nhất quyền lợi của họ.
3.2.3. Kỹ năng trao đổi và tư vấn cho doanh nghiệp là bị đơn trong vụ tranh chấp về hợp đồng thương mại.
Trong trường hợp doanh nghiệp là bị đơn trong vụ án tranh chấp hợp đồng đã được Tòa án thụ lý, cán bộ pháp chế sẽ giúp doanh nghiệp (bị đơn) soạn thảo văn bản ghi ý kiến trả lời của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, đưa ra yêu cầu phản tố (nếu có); các yêu cầu khác và xác định, thu thập các tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh ý kiến phản bác của bị đơn, chứng minh yêu cầu phản tố, yêu cầu khác là có căn cứ.
Cán bộ pháp chế cũng cần có kỹ năng nghiên cứu nội dung tranh chấp, xác định các tình tiết quan trọng của vụ án tranh chấp hợp đồng, về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để xác định được rõ hơn các tình tiết của vụ án; đối chiếu với danh mục các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn nộp kèm theo đơn khởi kiện được thể hiện trong thông báo về việc thụ lý vụ án dân sự với các tài liệu mà bị đơn hiện có . Trong trường hợp cần thiết, cna bộ pháp chế cần hướng dẫn cho doanh nghiệp thực hiện thủ tục xin sao, chụp đơn khởi kiện và tài liệu do nguyên đơn cung cấp. Trên cơ sở đó, cán bộ pháp chế nhận diện được bức tranh ban đầu của vụ án tranh chấp hợp đồng như yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, quan hệ pháp luật các bên tranh chấp, các tình tiết của vụ án, tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp cho Tòa án để chứng minh căn cứ của yêu cầu; nguyên nhân, lý do tranh chấp, mức độ tranh chấp, phạm vi, đối tượng tranh chấp, ý kiến, quan điểm của doanh nghiệp đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, quan điểm của doanh nghiệp về hướng giải quyết vụ án, yêu cầu, mong muốn của doanh nghiệp; yêu cầu mong muốn của các đương sự khác trong vụ án và soạn thảo văn bản ghi ý kiến trả lời của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bảo vệ tốt nhất quyền lợi của họ.
Đồng thời với việc soạn thảo văn bản ghi ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cán bộ pháp chế nghiên cứu các sự kiện, tình tiết trong vụ án, xác định có yêu cầu phản tố hay không, tư vấn chính xác cho bị đơn về yêu cầu phản tố (nếu có). Ví dụ trong vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu thanh toán tiền hàng còn thiếu và lãi suất chậm thanh toán. Qua trao đổi với doanh nghiệp (bị đơn), xem xét tài liệu, chứng cứ xác định được bên nguyên đơn có hành vi vi phạm hợp đồng chậm giao hàng dẫn đến bị đơn bị thiệt hại, cần tư vấn cho bị đơn về yêu cầu phản tố buộc nguyên đơn phải bồi thường thiệt hại, phạt hợp đồng (nếu có thỏa thuận). Trong trường hợp bị đơn muốn phản tố, cán bộ pháp chế tư vấn cho doanh nghiệp về yêu cầu phản tố, thời hạn và thủ tục của yêu cầu này. Thủ tục của yêu cầu phản tố được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Bản chất của việc yêu cầu phản tố là khởi kiện ngược lại nguyên đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Điều này đòi hỏi cán bộ pháp chế phải có kỹ năng nhận diện yêu cầu phản tố trong vụ án dân sự cũng như phân biệt được ý kiến phản bác và yêu cầu phản tố. Hiện nay, theo khoản 3 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
3.2.4. Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện
Nguyên đơn khởi kiện, bị đơn yêu cầu phản tố đều phải có hồ sơ khởi kiện. Cán bộ pháp chế cần có kỹ năng xác định được các tài liệu, giấy tờ cần có trong hồ sơ khởi kiện. Hồ sơ khởi kiện của nguyên đơn, phản tố của bị đơn có sự khác nhau.
(a) Hồ sơ khởi kiện
Cần lưu ý chứng cứ trong hồ sơ khởi kiện chỉ là các chứng cứ ban đầu, đủ để thụ lý vụ án. Theo quy định tại Điều 189 và những quy định có liên quan khác của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, hồ sơ khởi kiện của người khởi kiện bao gồm các tài liệu, giấy tờ, chứng cứ sau:
Đơn khởi kiện vụ án dân sự: Phải tuân thủ điều kiện về hình thức và nội dung của đơn khởi kiện quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trong đơn khởi kiện, cần chú ý trình bày được nội dung tranh chấp, yêu cầu khởi kiện theo trật tự logíc sau:
 - Tóm tắt các tình tiết về việc xác lập, thực hiện quan hệ pháp luật các bên tranh chấp;
 - Tóm tắt các tình tiết về quá trình tranh chấp và giải quyết tranh chấp tiền tố tụng (nếu có);
 - Các yêu cầu đề nghị Toà án giải quyết: tùy thuộc vào từng tranh chấp và mong muốn của doanh nghiệp để ghi rõ từng yêu cầu cụ thể đề nghị Tòa án giải quyết.
 Các giấy tờ, tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện: Cán bộ pháp chế tư vấn và hướng dẫn doanh nghiệp cung cấp những tài liệu, chứng cứ cần thiết sau:
- Các tài liệu xác định tư cách pháp lý của doanh nghiệp và người đại diện của doanh nghiệp như: Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, điều lệ… và tài liệu nhằm xác định tư cách đại diện củadoanh nghiệp như quyết định bổ nhiệm hoặc cử người đại diện doanh nghiệp, văn bản ủy quyền…
- Các tài liệu xác định tên, địa chỉ của bị đơn: giấy xác nhận địa chỉ cư trú của bị đơn (nếu là cá nhân). Nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức: giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, quyết định thành lập, điều lệ…
- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ: Hợp đồng, phụ lục hợp đồng, chứng từ chứng minh quá trình thực hiện hợp đồng: chứng từ thanh toán, biên bản giao nhận hàng…,
- Bản kê danh mục các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn kiện (ghi rõ số bản chính, bản sao).
Đồng thời với việc xác định được các tài liệu, chứng cứ cần thiết,cán bộ pháp chế cần phải lưu ý đến tính hợp lệ của các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện theo Điều 93 và các quy định có liên quan khác Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Ví dụ: các tài liệu là văn bản, tài liệu tiếng nước ngoài đều phải được dịch sang tiếng Việt Nam được chứng nhận của lãnh sự quán hoặc đại sứ quán. Do cơ quan, tổ chức có chức năng dịch thuật, kèm theo bản gốc. Như vậy, để khởi kiện, cán bộ pháp chế phải giúp doanh nghiệp đảm bảo được tính đầy đủ và tính hợp lệ của hồ sơ khởi kiện.
(b) Hồ sơ phản tố
Các tài liệu, chứng cứ của hồ sơ phản tố khác với hồ sơ khởi kiện do trong trường hợp này vụ án đã được thụ lý. Điều 202Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: thủ tục yêu cầu phản tố được thực hiện theo quy định thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Do đó, hồ sơ phản tố của bị đơn bao gồm các tài liệu, chứng cứ sau:
- Đơn yêu cầu phản tố: Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 không quy định cụ thể về nội dung và hình thức đơn yêu cầu phản tố. Theo Điều 201 và Điều 189 BLTDS 2015 hình thức đơn yêu cầu phản tố phải tuân thủ quy định tại Điều 189 về hình thức của đơn khởi kiện. Về nội dung, đơn yêu cầu phản tố cần trình bày được các tình tiết, chứng cứ và yêu cầu phản tố.
- Các giấy tờ, tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu phản tố là có căn cứ: các giấy tờ, tài liệu này, tùy thuộc từng loại tranh chấp hợp đồng và yêu cầu phản tố của bị đơn như các giấy tờ, tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm của nguyên đơn, chứng minh thiệt hại…
 - Bản kê danh mục các tài liệu,chứng cứ nộp kèm theo đơn kiện (ghi rõ số bản chính, bản sao).
Giống như các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện; tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn yêu cầu phản tố ngoài việc phải bảo đảm tính đầy đủ còn phải bảo đảm tính hợp lệ.
4.2. Kỹ năng chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa sơ thẩm
4.2.1. Kỹ năng thu thập, cung cấp; tư vấn về thu thập, cung cấp chứng cứ
Chứng cứ là một trong những vấn đề quan trọng mang tính cốt lõi, có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vụ án. Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Chính vì vậy,cán bộ pháp chế cần phải có kỹ năng thu thập, cung cấp; tư vấn về việc thu thập, cung cấp chứng cứ.
(a) Kỹ năng thu thập, tư vấn doanh nghiệp thu thập chứng cứ
Trước hết, cán bộ pháp chế phải xác định hệ thống chứng cứ cần phải có để giải quyết vụ án. Tiếp theo,cán bộ pháp chế xác định chứng cứ mà doanh nghiệp mình phải cung cấp. Để thực hiện tốt kỹ năng này, cần xác định được các tình tiết vụ án, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp; đối tượng, phạm vi tranh chấp như thế nào, trong vụ án cần phải chứng minh các vấn đề cụ thể gì, nghĩa vụ chứng minh các bên đương sự. Tùy thuộc vào quan hệ hợp đồng tranh chấp, đối tượng, phạm vi tranh chấp, các tình tiết của tranh chấp hợp đồng trong từng vụ án cụ thể để xác định các vấn đề cần chứng minh. Từ đó, cán bộ pháp chế “khoanh vùng” được phạm vi chứng cứ cần thu thập của từng vụ án. Ví dụ, trong trong vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản các bên chỉ tranh chấp về vấn đề thanh toán, không tranh chấp về chất lượng tài sản mua bán thì phạm vi chứng cứ cần thu thập trong vụ án không bao gồm chứng cứ chứng minh chất lượng tài sản.
Trước hết cán bộ pháp chế tư vấn, hướng dẫn doanh nghiệp xác định các chứng cứ phải cung cấp cho Tòa án. Sau đó, tư vấn cho doanh nghiệp xác định các chứng cứ doanh nghiệp đã có hoặc phải tự mình đi thu thập. Các chứng cứ doanh nghiệp có thể tự thu thập được thông thường bao gồm: Các hồ sơ cá nhân mà họ thường giữ một bản, ví dụ: các bản hợp đồng, phụ lục hợp đồng, chứng từ thanh toán… Có một số tài liệu hoặc chứng cứ doanh nghiệp phải thu thập thông qua các cơ quan nhà nước, ví dụ: giấy xin xác nhận hoặc chứng nhận về một tình tiết, sự kiện pháp lý nào đó. Xem xét các chứng cứ doanh nghiệp cung cấp, cán bộ pháp chế xác định các chứng cứ cần tiếp tục thu thập.
Để xác định được chính xác hệ thống chứng cứ của vụ án, chứng cứ doanh nghiệp có nghĩa vụ cung cấp,cán bộ pháp chế phải có kỹ năng xác định được các vấn đề cần chứng minh trong vụ án, nghĩa vụ chứng minh. Trong từng vụ án cụ thể,cán bộ pháp chế xác định các chứng cứ cần thu thập đang được chủ thể nào (cá nhân, cơ quan, tổ chức) lưu giữ và bằng cách nào để thu thập (hoạt động khám phá chứng cứ). Đối với các chứng cứ cần tiếp tục thu thập, có trường hợp cán bộ pháp chế phải tự mình đi thu thập, xác minh tại một số cơ quan, tổ chức. Ví dụ,cán bộ pháp chế yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung cấp hoặc xác nhận về nguồn gốc tài sản các bên đang tranh chấp, xác nhận một sự kiện pháp lý, lấy xác nhận của người làm chứng; yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của người làm chứng; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp hợp đồng mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý.
Mặc dù về nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ nhưng Tòa án cũng phải có trách nhiệm hỗ trợ đương sự thực hiện việc chứng minh. Chính vì vậy, cán bộ pháp chế tư vấn cho doanh nghiệp yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Cụ thể như yêu cầu Tòa án triệu tập người làm chứng và lấy lời khai của họ để làm rõ các vấn đề cần chứng minh trong vụ án; yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp đối chất, trưng cầu giám định, định giá tài sản; xác minh tài liệu, chứng cứ... Đối với yêu cầu Tòa án triệu tập người làm chứng tham gia tố tụng cần lưu ý: có thể có nhiều người làm chứng, nhưng lựa chọn ai là người làm chứng đề nghị Tòa án triệu tập lấy lời khai của họ là vấn đề phải cân nhắc. Về kỹ năng, có thể hỏi trước người làm chứng để xác định lời khai của họ có phù hợp với những cứ xác đáng khác đã thu thập được hay không. Nếu phát hiện thấy lời khai của người làm chứng không phù hợp với những chứng cứ xác đáng khác đã thu thập cần phân tích cho người làm chứng thấy rõ sự mâu thuẫn trong lời khai và đề nghị họ khai đúng sự thật tại Tòa án.
Yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ, cần thực hiện bằng văn bản, cán bộ pháp chế soạn thảo văn bản này cho doanh nghiệp theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Văn bản này do đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ký hoặc cán bộ pháp chế ký (nếu là người đại diện theo ủy quyền). Trường hợp phải xác định giá trị tài sản tranh chấp, cán bộ pháp chế tư vấn cho doanh nghiệp yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp định giá tài sản tranh chấp, thẩm định giá theo quy định tại Điều 101, 104 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Nếu tài sản là nhà, đất cần yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp xem xét thẩm định tại chỗ trước khi định giá. Chẳng hạn, tranh chấp hợp đồng liên quan đến tài sản là nhà, đât, trước phiên định giá, cán bộ pháp chế thu thập các chứng cứ liên quan đến loại đất, vị trí nhà đất, khả năng sinh lợi của nhà đất, tham khảo khung giá đất do UBND tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) ban hành về giá các loại đất ở địa phương, lấy chứng cứ về việc chuyển nhượng nhà đất trong khu vực nhà đất đang tranh chấp vào thời điểm gần nhất để cung cấp cho Hội đồng định giá về giá và tư vấn cho doanh nghiệp của mình phát biểu ý kiến về giá tài sản tranh chấp tại phiên định giá trước khi Hội đồng tiến hành định giá. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng cho thấy, có những vụ án rất phức tạp, gặp nhiều khó khăn liên quan đến việc thu thập chứng cứ đòi hỏi có sự nhạy bén, linh hoạt.
Cùng với việc thu thập chứng cứ,cán bộ pháp chế lưu ý vấn đề bảo quản chứng cứ. Đây cũng là một hoạt động rất quan trọng để bảo vệ chứng cứ, tránh việc chứng cứ bị hủy hoại. Việc bảo quản chứng cứ có thể sử dụng biện pháp chụp ảnh, niêm phong, đề nghị Thừa phát lại lập vi bằng...
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử,cán bộ pháp chế có thể tư vấn cho doanh nghiệp về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu, rút yêu cầu. Khi Tòa án chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu, cán bộ pháp chế xác định lại phạm vi các chứng cứ của vụ án và chứng cứ thuộc nghĩa vụ cung cấp của doanh nghiệp. Trường hợp có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cán bộ pháp chế cũng phải thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu. Ngoài ra, cũng cần lưu ý: việc trình bày các tình tiết vụ án trong các bản tự khai, bản khai và trong phần tranh tụng tại phiên tòa cũng là hoạt động cung cấp chứng cứ.
(b) Kỹ năng cung cấp, tư vấn cung cấp chứng cứ
Cán bộ pháp chế tư vấn và hướng dẫn doanh nghiệp cung cấp hoặc thực hiện việc cung cấp chứng cứ cho Tòa án. Về nguyên tắc, các chứng cứ chứng minh các vấn đề thuộc về nghĩa vụ chứng minh của doanh nghiệp. Trong một vụ án thông thường có rất nhiều loại chứng cứ khác nhau, cán bộ pháp chế cần hướng dẫn các doanh nghiệp nắm bắt được sơ bộ chứng cứ nào là quan trọng đối với việc xem xét và giải quyết vụ án, trên cơ sở đó giúp đương sự tập hợp các chứng cứ lại theo hướng dẫn của mình. Thông thường chứng cứ có thể được sắp xếp theo thứ tự ngày tháng, nội dung hoặc theo hình thức của chứng cứ đó. Đối với những chứng cứ là bản gốc duy nhất, cần hướng dẫn các doanh nghiệp photo chứng thực bản sao, nhân làm hai bản trở lên. Một bản để nộp cho Tòa án, bản còn lại do doanh nghiệp giữ. Bản gốc, bản chính nhất thiết phải do doanh nghiệp giữ để xuất trình khi Thẩm phán yêu cầu cần đối chiếu bản sao với bản gốc, bản chính. Việc cung cấp các chứng cứ đã thu thập được cho Tòa án vào thời điểm nào do cán bộ pháp chế, Luật sư quyết định. Tuy nhiên, điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là đương sự không có quyền cung cấp chứng cứ ở bất kỳ thời điểm nào của quá trình tố tụng mà đã bị giới hạn theo khoản 4 Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 .
Cung cấp chứng cứ là một nghệ thuật, đòi hỏi sự tinh thông về kỹ năng nghiệp vụ. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi phải bảo đảm sự minh bạch về chứng cứ, các đương sự có trách nhiệm trao đổi chứng cứ và tranh luận với nhau, chứ không chỉ đơn giản là xuất trình chứng cứ và trình bày quan điểm của mình đối với Thẩm phán mà thôi.
- Cung cấp chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử:
Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, để làm rõ các yêu cầu của doanh nghiệp (hoặc ý kiến phản bác yêu cầu), cán bộ pháp chế tư vấn, thực hiện việc cung cấp hoặc tư vấn cho đương sự cung cấp chứng cứ trong thời hạn do Thẩm phán ấn định tại thông báo giao nộp chứng cứ. Đối với chứng cứ Thẩm phán không yêu cầu giao nộp, việc cung cấp tùy thuộc vào mục tiêu của doanh nghiệp. Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ thì cần phải chuẩn bị tài liệu, chứng cứ chứng minh lý do chính đáng của việc chậm. Đối với chứng cứ không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm, có thể cung cấp trong xét xử phúc thẩm. Khi cung cấp chứng cứ, nên thể hiện rõ quan điểm của mình là chứng cứ này dùng để chứng minh cho vấn đề gì.
Cán bộ pháp chế cần thực hiện trách nhiệm trao đổi chứng cứ giữa các bên đương sự quy định tại khoản 5 Điều 96 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Việc sao gửi chứng cứ hoặc thông báo chứng cứ phải được thực hiện giữa các bên. Một trong những điểm mới mang tính đột phá của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là quy định về phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải. Tại phiên họp, Thẩm phán công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, hỏi đương sự về xác định phạm vi yêu cầu (khởi kiện, phản tố, độc lập, yêu cầu khác); những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất; tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác; bổ sung tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Như vậy, phiên họp này có vai trò rất quan trọng, thành phần tham gia phiên họp có Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự nên nếu cán bộ pháp chế là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp hoặc người đại diện cho doanh nghiệp cần tham gia phiên họp để xác định tình tiết, tiếp cận, xác định chứng cứ trong vụ án và thực hiện kỹ năng cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ.
Cán bộ pháp chế cần tư vấn cho doanh nghiệp yêu cầu Tòa án lập biên bản giao nhận tài liệu, chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án. Biên bản giao nộp tài liệu, chứng cứ phải đươc lưu vào hồ sơ vụ án của Tòa án.
- Cung cấp chứng cứ tại phiên tòa sơ thẩm:
Tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự có quyền bổ sung chứng cứ trong trường hợp không thể biết được chứng cứ đó trong quá trình chuẩn bị xét xử; chứng cứ Thẩm phán không yêu cầu giao nộp hoặc có lý do chính đáng giao nộp chậm. Các chứng cứ cung cấp tại phiên tòa có thể là những chứng cứ đã thu thập được trước đó nhưng chưa cung cấp, cũng có thể là các chứng cứ mới thu thập được như một bản di chúc, giấy biên nhận… Tùy theo mục đích, tư vấn cho doanh nghiệp cung cấp bổ sung chứng cứ tại phiên tòa. Việc cung cấp các chứng cứ tại phiên tòa phải thực sự gây được sự chú ý của Tòa án và chứng cứ do mình cung cấp có thể giúp Tòa án nhìn nhận lại vụ tranh chấp một cách có lợi cho doanh nghiệp của mình hơn.
4.2.2. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ
Nghiên cứu hồ sơ vụ án là tổng hợp các hoạt động đọc, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, từ đó đưa ra kết luận về các vấn đề về tố tụng và nội dung của vụ án. Nghiên cứu hồ sơ vụ án có mối quan hệ chặt chẽ với các kỹ năng thu thập và cung cấp chứng cứ trước đó.cán bộ pháp chế cần nắm vững nguyên tắc nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện. Nguyên tắc này đòi hỏi phải nghiên cứu tất cả các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, không được bỏ sót bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào. Tuy nhiên, nghiên cứu hồ sơ vụ án cần đặc biệt quan tâm đến quyền lợi của doanh nghiệp, đặc biệt là những tài liệu, chứng cứ có lợi, bất lợi của doanh nghiệp và của đương sự đối tụng, các căn cứ của yêu cầu, phản bác yêu cầu của doanh nghiệp và các căn cứ do các đương sự khác đưa ra.
Về phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án, cán bộ pháp chế thực hiện bắt đầu từ nghiên cứu đơn khởi kiện, các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản đối chất, biên bản hòa giải và các tài liệu, chứng cứ khác do những người tham gia tố tụng cung cấp, Tòa án thu thập.
Về các nội dung nghiên cứu hồ sơ bao gồm các vấn đề về tố tụng và nội dung. Ngoài ra, cần chú ý nghiên cứu các vấn đề khác như: nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, tính chất, mức độ của tranh chấp; hoàn cảnh, điều kiện; yêu cầu, mục đích của doanh nghiệp...
Các vấn đề về tố tụng và nội dung có mối quan hệ chặt chẽ. Tuy nhiên, để bảo đảm tính logíc, khoa học trong việc nghiên cứu, trước hết nghiên cứu và đưa ra kết luận các vấn đề về tố tụng trong vụ án. Việc nghiên cứu bắt đầu từ quyền khởi kiện của nguyên đơn, thẩm quyền của Tòa án, quyền phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu độc lập của người liên quan; thời hiệu khởi kiện vụ án, sau đó đến các vấn đề khác như tư cách đương sự; trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ; trình tự thủ tục phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải… .
Thời hiệu khởi kiện là vấn đề phức tạp. Theo Điều 427 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm. Theo Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Cần lưu ý các quy định mới Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về thời hiệu khởi kiện vụ án đặc biệt quy định tại điều khoản chuyển tiếp Bộ luật Dân sự 2015, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ để kết luận còn hay hết thời hiệu khởi kiện. Trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết,cán bộ pháp chế nghiên cứu các vấn đề khác liên quan đến thời hiệu khởi kiện được quy định trong Bộ luật Dân sự, cụ thể là:
- Có sự kiện pháp lý về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện không? Tài liệu, chứng cứ nào phản ánh vấn đề này?
- Có tài liệu, chứng cứ nào trong hồ sơ vụ án phản ánh sự kiện pháp lý về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện không?
Nghiên cứu đầy đủ các vấn đề trên mới có thể kết luận còn hay hết thời hiệu khởi kiện.
Cần chú ý nghiên cứu kỹ trình tự, thủ tục Tòa án áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ, đối chiếu với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thu thập chứng cứ để xác định Tòa án có thực hiện đúng không. Các biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự bao gồm: Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với người làm chứng; trưng cầu giám định; định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; xem xét, thẩm định tại chỗ; ủy thác thu thập chứng cứ, xác minh tài liệu, chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. Ví dụ: trường hợp di sản thừa kế các bên tranh chấp là cây cảnh, đồ cổ... thì cần nghiên cứu kỹ về Hội đồng định giá để từ đó kết luận việc định giá có đảm bảo đúng giá trị thực của tài sản tranh chấp không?
Nghiên cứu về nội dung của vụ án, được thực hiện bắt đầu từ nghiên cứu yêu cầu của các đương sự. Đương sự có thể thay đổi, bổ sung, rút một phần yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, cần nghiên cứu các tài liệu như bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản đối chất, biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản về việc hòa giải.... để xác định yêu cầu cuối cùng của đương sự. Kết quả của việc nghiên cứu yêu cầu của đương sự là phải xác định được chính xác từng loại yêu cầu và thủ tục thực hiện các yêu cầu đó có đúng pháp luật không?
Sau khi nghiên cứu yêu cầu của đương sự,cán bộ pháp chế tiếp tục nghiên cứu các vấn đề cần chứng minh, nghĩa vụ chứng minh, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án. Việc nghiên cứu các vấn đề cần chứng minh gắn liền với hoạt động nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Khi nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, nghiên cứu và đánh giá cả về hình thức và nội dung của chứng cứ. Về mặt nguyên tắc, cần nghiên cứu tất cả các vấn đề về tố tụng và nội dung của vụ án. Tuy nhiên, cán bộ pháp chế nên xác định các bên đương sự đang tranh chấp những vấn đề gì để tập trung nghiên cứu. Ví dụ, bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn trong vụ án tranh chấp hợp đồng có yêu cầu hủy hợp đồng, bồi thường thiệt hại và phạt hợp đồng. Bên bị đơn có ý kiến phản bác thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết, yêu cầu Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, ngoài việc nghiên cứu các vấn đề khác cần tập trung nghiên cứu vấn đề thời hiệu khởi kiện, để xác định chính xác còn thời hiệu khởi kiện hay không, từ đó trao đổi với doanh nghiệp và tư vấn cho họ các phương án giải quyết khác nhau.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án không tách rời với việc đánh giá các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Khi nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cần có phương pháp nghiên cứu từng chứng cứ, xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ và nghiên cứu tổng hợp chứng cứ (đặt các chứng cứ trong mối liên hệ so sánh, đối chiếu với nhau), từ đó kết luận về từng tình tiết, từng vấn đề cần chứng minh của vụ án và các yêu cầu của đương sự. Sản phẩm hoạt động nghiên cứu hồ sơ củacán bộ pháp chế là bản ghi chép kết quả nghiên cứu. Trong bản này nên lập theo các nội dung sau: thông tin về vụ án (quan hệ pháp luật tranh chấp; đương sự); kết luận về từng tình tiết (số bút lục), về từng vấn đề về tố tụng; từng vấn đề cần chứng minh của vụ án; yêu cầu của doanh nghiệp; giải pháp cụ thể mà cán bộ pháp chế đưa ra sau khi nghiên cứu hồ sơ (yêu cầu Tòa án đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án; thu thập, cung cấp, bổ sung chứng cứ…). Trong bản này cũng cần phải xác định rõ luật áp dụng, các nguồn bổ trợ của pháp luật (nếu có áp dụng). Nội dung bản kết quả nghiên cứu hồ sơ có mối liên hệ chặt chẽ với việc xây dựng phương án hỏi, soạn thảo dự thảo bản luận cứ; tạo tiền đề để cán bộ pháp chế tham gia phiên tòa sơ thẩm đạt kết quả tốt.
4.2.3. Kỹ năng xây dựng dự thảo phương án hỏi và chuẩn bị bản luận cứ
Xây dựng dự thảo phương án hỏi và chuẩn bị dự thảo bản luận cứ cần được thực hiện ngay sau khi nghiên cứu hồ sơ. Kỹ năng này có mối liên hệ chặt chẽ với kỹ năng trước đó như tham gia phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; nghiên cứu và lập bản kết quả nghiên cứu hồ sơ. Phương án hỏi trong vụ án cần bám vào các vấn đề về nội dung và tố tụng của vụ án. Các vấn đề cần hỏi tùy thuộc vào đối tượng các bên tranh chấp và những vấn đề mà các bên còn chưa thống nhất trong từng vụ án cụ thể. Ví dụ, trong vụ án hợp đồng mua bán A vấn đề cần hỏi để làm rõ là giao hàng; nhưng trong vụ án hợp đồng mua bán B thì vấn đề cần hỏi lại xoay quanh hiệu lực của hợp đồng, thiệt hại... Cần lưu ý, phương án hỏi có thể thay đổi tùy thuộc vào diễn biến của phiên tòa sơ thẩm. Trong nội dung phương án hỏi cần xác định rõ danh mục vấn đề, các tình tiết và những người tham gia tố tụng cần hỏi.
Bản luận cứ có vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, vì vậy, cần đầu tư thời gian, trí tuệ cho hoạt động này, đặc biệt khi tham gia vụ án phức tạp, có nhiều đương sự, nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp, nhiều loại yêu cầu; tài liệu, chứng cứ có sự mâu thuẫn. Ngôn ngữ viết trong bản luận cứ phải là ngôn ngữ pháp lý nên yêu cầu đặt ra là chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu và đơn nghĩa, không văn hoa, suy diễn. Đây là nguyên tắc chung trong soạn thảo dự thảo bản luận cứ của cán bộ pháp chế trong tranh tụng.
 Về cấu trúc của bản luận cứ: Bản luận cứ chỉ có hai phần: phần nội dung và đề xuất.
Cách viết phần nội dung bản luận cứ
Phần nội dung là phần quan trọng nhất của bản luận cứ. Toàn bộ những nội dung tranh chấp, quan điểm, các chứng cứ, cơ sở pháp lý cho quan điểm củacán bộ pháp chế được thể hiện đầy đủ tại phần này, bao gồm những phân tích, nhận định về các vấn đề về tố tụng và nội dung của vụ án. Các phân tích, nhận định và kết luận về những vấn đề tố tụng cần được viết trước các vấn đề về nội dung.
Trong nội dung bản luận cứ,cán bộ pháp chế bắt đầu bằng câu: “Kính thưa Hội đồng xét xử; qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa ngày hôm nay, thay mặt bên nguyên đơn (bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), tôi trình bày quan điểm pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bên nguyên đơn (bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) như sau:...”.
Tiếp theo, cán bộ pháp chế phân tích, lập luận thẳng, trực tiếp về từng yêu cầu, tình tiết, các vấn đề cần chứng minh trong vụ án. Nếu vụ án có những vấn đề về tố tụng của vụ án cần phải phân tích, lập luận hoặc các bên đương sự có tranh chấp về những vấn đề này thì trước phải phân tích lập luận về những vấn đề này. Điều này phụ thuộc vào từng vụ án và bảo vệ cho doanh nghiệp ở vị trí tố tụng nào. Trên cơ sở đó, cán bộ pháp chế đưa ra kết luận về từng vấn đề tố tụng mà mình vừa phân tích.
Sau khi phân tích, kết luận về các vấn đề về tố tụng, cán bộ pháp chế phân tích, lập luận các vấn đề cần giải quyết về nội dung của vụ án. Nếu trong vụ án có quan điểm khác nhau về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp hoặc không đồng ý với việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của Tòa án thì trước hết cần phân tích, lập luận kết luận về quan hệ pháp luật tranh chấp. Sau đó, cán bộ pháp chế phân tích, lập luận từng yêu cầu, ý kiến phản bác yêu cầu. Việc phân tích bắt đầu từ từng tình tiết cần làm sáng tỏ, từng vấn đề cần phải giải quyết về mặt nội dung của vụ án. Đồng thời, cán bộ pháp chế cần chú ý phân loại các tình tiết, các vấn đề mà các bên đã thống nhất được và các tình tiết, vấn đề các bên còn tranh chấp và tập trung phân tích, luận lập về các tình tiết, vấn đề cần phải giải quyết của vụ án các bên còn tranh chấp. Cuối cùng, kết luận lần lượt về tình tiết vụ án, từng vấn đề cần phải giải quyết của vụ án, từng yêu cầu hoặc phản bác yêu cầu.
Phân tích, nhận định về các vấn đề về tố tụng, nội dung của vụ án đều phải xuất phát từ yêu cầu của doanh nghiệp, tình tiết vụ án, đánh giá, sử dụng các chứng cứ thực tế của vụ án và viện dẫn, phân tích các quy định của pháp luật tố tụng, nội dung và các nguồn bổ trợ khác của pháp luật (nếu áp dụng).
 Cách viết phần đề xuất của bản luận cứ: Phần kết luận bao gồm hai nội dung chính:
Một là: Khẳng định lại các quan điểm thông qua quá trình phân tích, chứng minh trong phần nội dung.
Hai là: đề xuất với Tòa án phương án giải quyết nhằm thỏa mãn yêu cầu của doanh nghiệp. Đối với từng đề xuất đều phải viện dẫn các quy định của pháp luật cụ thể (điểm, khoản, điều), các nguồn bổ trợ khác của pháp luật; không viện dẫn bình luận khoa học, giáo trình, tài liệu tham khảo.
Những yêu cầu, đề nghị về tố tụng của vụ án như: đình chỉ giải quyết vụ án, đình chỉ giải quyết yêu cầu, tạm đình chỉ giải quyết vụ án... phải được đề xuất trước các đề xuất việc giải quyết vụ án về mặt nội dung. Ví dụ, trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tiền, quá trình giải quyết vụ án bên nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền vay gốc và tiền lãi nhưng tại phiên tòa, nguyên đơn rút yêu cầu bị đơn trả tiền lãi thì đề xuất viết như sau:“...đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử yêu cầu đòi tiền lãi của bên nguyên đơn”
Trong vụ án, nếu các bên đã thỏa thuận được các yêu cầu nào và thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, các yêu cầu nào còn tranh chấp thì đề xuất của bản luận cứ cũng phải thể thiện được điều này. Các đề xuất về việc chấp nhận yêu cầu, đề nghị phải rất rõ ràng, cụ thể, ngắn gọn, chính xác và phải được sắp xếp khoa học. Tránh tình trạng đưa ra những đề xuất chung chung như “giải quyết bảo đảm quyền lợi cho bên nguyên đơn (bị đơn) theo quy định của pháp luật” hoặc "đề nghị toà án xử buộc bị đơn phải trả lại toàn bộ nợ gốc và lãi theo quy định của pháp luật..." mà phải viết cụ thể: "đề nghị Tòa án áp dụng Điều....Bộ luật Dân sự 2005... chấp nhận yêu cầu của bên nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả 200.000.000 đồng tiền vay gốc và 30.000.000 đồng tiền lãi”.
Các quy đổi từ đổi ngoại tệ sang loại tiền Việt Nam hoặc từ tài sản (vàng, gạo...) sang tiền Việt Nam phải được trình bày một cách rõ ràng. Ví dụ, nguyên đơn mua nhà ở của bị đơn và thanh toán tiền mua nhà bằng 50.000.000 USD Mỹ (đô la Mỹ) cho bên bị đơn. Bên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở bị vô hiệu. Trong trường hợp này, bảo vệ quyền lợi cho bên nguyên đơn, trợ giúp viên pháp lý có thể viết đề xuất về yêu cầu của bên nguyên đơn như sau: "... Kính đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều... Pháp lệnh quản lý Ngoại hối, Điều... Bộ luật Dân sự 2005 chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở xác lập ngày..., tháng..., năm... giữa nguyên đơn và bị đơn vô hiệu; buộc bị đơn phải thanh toán trả nguyên đơn 50.000.000 USD Mỹ (quy đổi sang tiền Việt Nam bằng X đồng”.
Đối với yêu cầu tyên trả tài sản là nhà, đất đề xuất của bản luận cứ phải cụ thể diện tích, kích thước, đặc điểm, các chiều tiếp giáp được chia. Những đề xuất về án phí trong vụ án cũng cần thiết phải được viết ở bản luận cứ. Đề xuất về nghĩa vụ nộp tiền án phí cũng cần cụ thể rõ ràng, chính xác về căn cứ pháp lý, người phải nộp án phí, số tiền án phí.
4.3. Kỹ năng tại phiên toà sơ thẩm
Xuất phát từ việc quy định bổ sung nguyên tắc tranh tụng, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung mang tính đột phá tại phiên tòa, bảo đảm cho các bên thực hiện tranh tụng. Theo đó, trình tự, thủ tục phiên tòa sơ thẩm có sự thay đổi, gồm các thủ tục: thủ bắt đầu phiên tòa, tranh tụng tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Trong thủ tục tranh tụng tại phiên tòa,cán bộ pháp chế thực hiện kỹ năng trình bày, hỏi, tranh luận.
Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa được quy định từ Điều 247 đến Điều 243 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong phần thủ tục này, nếu tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp hoặc đại diện cho doanh nghiệp, cán bộ pháp chế có vai trò quan trọng làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Ngoài ba kỹ năng cơ bản: trình bày, hỏi, tranh luận, cán bộ pháp chế cần có sự kết hợp thành thục các kỹ năng trình bày, nghe, viết, nói.
4.3.1. Kỹ năng trình bày của cán bộ pháp chế với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp
 Bắt đầu thủ tục tranh tụng, cán bộ pháp chế bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn trình bày, sau đó đến bị đơn và cuối cùng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trước hết, cán bộ pháp chế nên có sự giới thiệu về mình một cách ngắn gọn. Sau đó, tiếp tục trình bày vào nội dung yêu cầu, ý kiến bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp. Nội dung trình bày cần rõ ràng, ngắn gọn nhưng logic và cụ thể. Cần chú ý không trình bày những tình tiết bất lợi cho doanh nghiệp mà mình bảo vệ. Ngoài ra, lưu ý sử dụng các thuật ngữ luật học phải chính xác; không sử dụng các từ ngữ mang tính địa phương, trìu tượng, khó hiểu, văn hoa, hoặc phản cảm. Các thuật ngữ luật học chính xác là các thuật ngữ đã được các văn bản pháp luật sử dụng. Ví dụ, thuật ngữ trong Bộ luật Tố tụng dân sự là người làm chứng, không phải là nhân chứng...
- Kỹ năng trình bày của cán bộ pháp chế với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn
 Nội dung trình bày là yêu cầu khởi kiện, căn cứ của yêu cầu và ý kiến của nguyên đơn đối với yêu cầu phản tố (nếu có), yêu cầu độc lập (nếu có). Việc trình bày về tình tiết gắn liền với trình bày chứng cứ. Xác định trình tự các nhóm tình tiết trình bày sẽ giúp tránh được tình trạng trình bày một cách thiếu mạch lạc, thiếu chính xác, trùng lặp, không đầy đủ các tình tiết cần trình bày. Do trình bày đầu tiên nên cán bộ pháp chế cần trình bày đầy đủ các nhóm tình tiết, chứng cứ của vụ án. Có nhiều phương pháp trình bày nhưngcán bộ pháp chế nên trình bày các tình tiết, chứng cứ về các vấn đề cần giải quyết của vụ án sau đó đến yêu cầu khởi kiện và ý kiến của nguyên đơn đối với yêu cầu phản tố của bị đơn (nếu có), yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có).
- Kỹ năng trình bày của cán bộ pháp chế với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn
Sau trình bày của bên nguyên đơn là trình bày củac án bộ pháp chế bảo vệ quyền lợi cho bị đơn. Nội dung trình bày: ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố và yêu cầu khác của bị đơn của bị đơn (nếu có); ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có). Việc trình bày các tình tiết và chứng cứ để khẳng định cho ý kiến và các yêu cầu của bị đơn là có căn cứ. Tuy nhiên, kỹ năng trình bày khi bảo vệ quyền lợi cho bị đơn khác với trình bày bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn. Đối với các nhóm tình tiết, chứng cứ đã thống nhất với trình bày của bên nguyên đơn không cần thiết phải trình bày lại mà chỉ trình bày ngắn gọn là đồng ý với nội dung trình bày của bên nguyên đơn. Có thể trình bày như sau: “Bên bị đơn chúng tôi thống nhất với phần trình bày của nguyên đơn về những vấn đề sau: 1…, 2…”, sau đócán bộ pháp chế tập trung trình bày cụ thể, đầy đủ những tình tiết, sự kiện, chứng cứ không thống nhất với phần trình bày của nguyên đơn và cuối cùng là ý kiến (chấp nhận 1 phần hay phản bác yêu cầu của nguyên đơn); yêu cầu phản tố (nếu có); ý kiến đối với yêu cầu độc lập (nếu có).
4.3.2. Kỹ năng hỏi
Sau phần trình bày, việc hỏi để làm sáng tỏ vụ án được thực hiện. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thứ tự hỏi đã được đảo lại theo hướng: Nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hỏi trước, tiếp đến bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, sau đó là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan¬. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cũng như đặt ra yêu cầu rất cao trong việc thực hiện kỹ năng hỏi đối với cán bộ pháp chế. Theo nguyên tắc chung, chỉ đặt các câu hỏi để yêu cầu đối tượng được hỏi trả lời nhằm làm rõ những tình tiết quan trọng, có giá trị trong vụ án mà các bên chưa trình bày, trình bày chưa rõ hoặc có sự mâu thuẫn, chưa có chứng cứ chứng minh và không hỏi trùng lắp.cán bộ pháp chế cần sử dụng phương án hỏi đã được xây dựng và tài liệu chứng cứ trong hồ sơ để hỏi và tiếp tục phát triển các câu hỏi trên cơ sở diễn biến tại thủ tục bắt đầu phiên tòa, trình bày và trả lời của những người tham gia phiên tòa .
Về phương pháp có thể sử dụng câu hỏi đóng, mở, trực tiếp, gián tiếp. Cán bộ pháp chế hỏi làm rõ về từng tình tiết, từng vấn đề còn tranh chấp, cần tiếp tục chứng minh tại phiên tòa. Hỏi làm sáng tỏ tình tiết, vấn đề này mới chuyển sang hỏi làm sáng tỏ tình tiết, vấn đề khác. Khi thực hiện việc hỏi, cán bộ pháp chế có quyền yêu cầu HĐXX công bố tài liệu, chứng cứ theo quy định tại Điều 254 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
4.3.3. Kỹ năng tranh luận, đối đáp
 Tranh luận là phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp, pháp luật áp dụng và các nguồn bổ trợ khác của pháp luật. Sau khi tranh luận các bên tiếp tục đối đáp. Tranh luận và đối đáp là hai kỹ năng khác nhau cần có sự phân biệt tránh sự trùng lặp.
Khi phát biểu quan điểm tranh luận, đối đáp, mỗi bên phải đưa ra các căn cứ thực tế và các căn cứ pháp lý để khẳng định quan điểm, yêu cầu, đề xuất của mình. Nhằm tránh bỏ sót các tình tiết cần tranh luận, đối đáp hoặc tranh luận, đối đáp trùng lặp, lộn xộn, rườm rà và bảo đảm sự khoa học,cán bộ pháp chế cần sắp xếp danh mục các tình tiết, các vấn đề cần tranh luận theo một trình tự.
Khi tranh luận, đối đáp bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, cán bộ pháp chế chú ý tránh làm tổn thương đến các đương sự có quyền lợi đối lập khác đặc biệt là đương sự thuộc nhóm người yếu thế.
Cán bộ pháp chế thực hiện kỹ năng tranh luận khác nhau tùy thuộc vào việc bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp ở các vị trí tố tụng là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Phạm vi, nội dung tranh luận tùy thuộc vào vụ án có thể là các vấn đề tố tụng và nội dung của vụ án; có thể là tình tiết, chứng cứ, luật áp dụng, các nguồn bổ trợ khác của pháp luật. Có những vụ án các bên tranh luận về tình tiết (gắn với chứng cứ). Có những vụ án các bên chỉ tranh luận về việc áp dụng pháp luật nội dung. Phạm vi, nội dung tranh luận cần chú ý là đã được chuẩn bị trong bản dự thảo bản luận cứ. Tuy nhiên, cần theo dõi diễn biến phiên tòa. Nếu tại phiên tòa có sự thay đổi, phạm vi tranh luận cũng phải xác định lại theo sự thay đổi đó. Ví dụ, khi hỏi về xác định yêu cầu tại phiên tòa, nguyên đơn bổ sung thêm yêu cầu và được Hội đồng xét xử chấp nhận việc bổ sung yêu cầu thì phạm vi tranh luận sẽ bổ sung thêm các luận cứ về đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận (không chấp nhận) yêu cầu bổ sung.
Sau phát biểu quan điểm tranh luận là phần đối đáp của các bên đương sự. Để thực hiện tốt việc đối đáp, trúng và đúng quá trình diễn biến của các phần trình bày, hỏi, tranh luận, cán bộ pháp chế phải có kỹ năng lắng nghe, ghi chép, tổng hợp. Trước hết, phải xác định được phạm vi đối đáp (phụ thuộc vào quá trình tranh luận). Sau khi các bên kết thúc tranh luận,cán bộ pháp chế bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn là người đối đáp trước nên cần tổng hợp nhanh các vấn đề cần đối đáp. Trong những vấn đề thuộc phạm vi đối đáp có thể có những vấn đề thống nhất hoặc không thống nhất với bên bị đơn hoặc không thống nhất tất cả các vấn đề, tùy thuộc vào từng vụ án thực tế. Sau khi bên nguyên đơn kết thúc đối đáp lần đầu,cán bộ pháp chế bảo vệ quyền lợi cho bị đơn tiếp tục “khoanh vùng” phạm vi các vấn đề tiếp tục đối đáp. Nếu thống nhất được vấn đề nào với bên nguyên đơn sẽ không đối đáp lại, tiếp tục đối đáp những vấn đề mà các bên còn tranh chấp.
Quá trình đối đáp, phải đánh giá, sử dụng chứng cứ trong hồ sơ, tại phiên tòa và viện dẫn quy định của pháp luật, các nguồn bổ trợ khác của pháp luật làm căn cứ kết luận về từng vấn đề đối đáp. Cần lưu ý, nếu đối đáp nhiều lần về một vấn đề nhưng không có nội dung khác với những lần đối đáp trước sẽ dẫn đến trùng lặp, không cần thiết. Cán bộ pháp chế nên phân tích, nhận định ngắn gọn và đối đáp thẳng vào từng vấn đề, đồng thời nếu cần thiết dùng ngay lập luận của chính bên đương sự đối lập để phản bác lại. Trong bất kỳ trường hợp nào khi tranh luận, đối đáp thì cán bộ pháp chế cũng phải tôn trọng sự điều khiển của chủ tọa phiên toà, tránh tình trạng “tranh cãi tay đôi” với bên đối tụng. Cuối cùng, cán bộ pháp chế kết luận và đề xuất với Hội đồng xét xử về từng vấn đề đối đáp.
Quá trình tranh luận, đối đáp nếu xét thấy có tình tiết, chứng cứ của vụ án chưa được xem xét, hoặc xem xét chưa được đầy đủ thì cán bộ pháp chế đề nghị Hội đồng xét xử trở lại việc hỏi; sau khi hỏi xong thì tiếp tục tranh luận, đối đáp./.

Xem thêm »