Trao đổi về một số vấn đề về quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại

29/04/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Quá trình quản lý nợ xấu được cụ thể bằng việc thu thập và xử lý thông tin của khách hàng, phân loại danh mục các khoản vay của khách hàng, kiểm tra, giám sát mức độ tuân thủ theo đúng cam kết trong Hợp đồng tín dụng, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, sớm nhận biết các dấu hiệu tiềm ẩn để kịp thời có các biện pháp xử lý, tránh để phát sinh hay chuyển thành nợ xấu. Việc phân loại khoản vay sẽ giúp cho ngân hàng dễ dàng quản lý danh mục đầu tư tín dụng của mình, từ đó có thể xác định chính xác mức độ rủi ro để có biện pháp xử lý kịp thời.

1. Khái niệm quản lý nợ xấu tại các Ngân hàng thương mại
 “Quản lý là sự tác động có t chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt được những mục tiêu dặt ra trong điều kiện biến động của môi trường” Phan Thị Thu Hà (2013), Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ, Nhà Xuất bản Thống kê, Hà Nội. Theo Ủy ban Basel, quản lý nợ xấu ngân hàng thương mại được hiểu như sau: Quản lý nợ xấu là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế sự phát sinh nợ xấu, đi kèm với các biện pháp xử lý những khoản nợ xấu đã phát sinh, từ đó nhằm tăng doanh thu, giảm chí phí và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kinh doanh trong cả ngắn hạn và dài hạn của ngân hàng thương mại".
 “Quản lý nợ xấu là một quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng để đạt được các mục tiêu là an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, trong đó cần tăng cường các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh, từ đó làm tăng doanh thu, giảm chi phí nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM” Nguyễn Thị Hoài Phương (2012), Quản lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Mục tiêu quản lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro. Do đó, để đảm bảo mục tiêu hiệu quả, kiểm soát rủi ro, phát triển bền vững nhất thiết đòi hỏi các ngân hàng phải xây dựng một hệ thống phòng ngừa rủi ro và đưa ra các biện pháp cần thiết để khắc phục, giảm thiểu rủi ro. Quản lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM nhằm những mục tiêu sau:
Thứ nhất, nợ xấu tạo ra gánh nặng chi phí cho các ngân hàng, vì vậy, một trong những mục tiêu quan trọng của quản lý nợ xấu là làm giảm chi phí và tăng lợi nhuận cho ngân hàng;
Thứ hai, xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng nhằm mục đích cơ cấu lại danh mục tín dụng, làm trong sạch và lành mạnh hóa tình hình tài chính và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng;
Thứ ba, quản lý nợ xấu nhằm giảm thiểu tổn thất cho ngân hàng, nâng cao uy tín của dân chúng đối với ngân hàng, tránh sự đổ vỡ cho ngân hàng;
Thứ tư, quản lý nợ xấu còn nhằm mục tiêu thu hồi được lượng vốn tồn đọng để tiếp tục quay vòng vốn kinh doanh cho ngân hàng.
3. Nội dung quản lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
3.1. Tổ chức thực hiện quản lý nợ xấu tại NHTM
a) Tổ chức bộ máy quản lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức quản lý RRTD tốt, phù hợp tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế và một phương thức quản lý rủi ro bài bản góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả quản lý nợ xấu. Do đó, các ngân hàng luôn cơ cấu, sắp xếp lại bộ máy tổ chức tín dụng, hoàn thiện cơ chế quản lý RRTD nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng.

  • Quản lý nợ xấu là cả một quá trình, tập hợp nhiều hoạt động khác nhau, liên quan chặt chẽ với nhau. Chính vì vậy, việc phân cấp là rất cần thiết để kết hợp được các hoạt động trong một tổng thể, kế thừa hỗ trợ cho nhau sẽ có tác động đáng kể đến quản lý nợ xấu.
  • Công tác tổ chức quản lý nợ xấu được thực hiện chặt chẽ, khoa học sẽ phát huy năng lực, sức mạnh của từng cá nhân, hạn chế được những mặt yếu của họ liên kết các cá nhân trong toàn ngân hàng, loại bỏ được những rủi ro đạo đức nghề nghiệp, khai thác tối đa mọi nguồn lực phục vụ cho công tác quản trị, đồng thời tạo ra được cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Giám đốc thì hạn chế được những rủi ro trong việc quản lý.
  • Mô hình tổ chức bộ máy quản lý nợ xấu có tác động trực tiếp đến lập kế hoạch và triển khai xử lý nợ xấu. Với mô hình được phân rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, đặc biệt là bộ phận xử lý nợ sẽ giúp công tác triển khai quản lý nợ hiệu quả hơn chuyên nghiệp hơn.
b) Ban hành các văn bản hướng dẫn, quy định, quy trình quản lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
Quản lý nợ xấu nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh là mục tiêu quan trọng của các ngân hàng thương mại. Hoạt động tín dụng của ngân hàng là hoạt động mang lại thu nhập chính cho ngân hàng thương mại, nhưng đây cũng là hoạt động tiềm ẩn nguy cơ rủi ro tín dụng (nợ xấu) cao. Do vậy, các ngân hàng thương mại phải xác định mức độ rủi ro tối đa, giới hạn tỷ lệ nợ xấu. Hoạt động ngân hàng nằm trong giới hạn rủi ro, đó là một thành công lớn của ngân hàng. Trên cơ sở quy định của nhà nước về nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu, các ngân hàng thương mại phải cụ thể hóa các văn bản, quy định đó áp dụng tại đơn vị mình bằng các quyết định, các văn bản hướng dẫn để thực hiện đúng chủ trương chính sách của nhà nước về nợ xấu và quản lý nợ xấu vừa đảm bảo đúng quy định, vừa mang lại hiệu quả cho ngân hàng thương mại.
3.2. Nhận diện nợ xấu
Nhận diện nợ xấu được coi là bước đầu tiên trong quá trình quản lý nợ xấu tại ngân hàng. Nhận diện nợ xấu là việc phát hiện, xác định nợ xấu trên cơ sở các tiêu chí để nhận diện khách hàng nợ xấu. Các nội dung chủ yếu trong giai đoạn nhận biết nợ xấu gồm có:
  • Phân tích danh mục tín dụng của ngân hàng: để nhận biết những nguy cơ rủi ro phát sinh từ quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, ngành nghề, loại tiền...
  • Phân tích đánh giá khách hàng: nhằm phát hiện những nguy cơ rủi ro trong từng khách hàng và từng khoản nợ cụ thể. Phân tích đánh giá khách hàng là cả một quá trình từ khi tiếp xúc với khách hàng, tiếp nhận các thông tin từ phía khách hàng, tiến hành phân tích, thẩm định khách hàng trước, trong và sau khi cho vay.
Việc nhận diện theo các tiêu chí này thường phức tạp do phụ thuộc rất lớn vào nguồn thông tin, độ lớn và tin cậy của dữ liệu, phương pháp và nội dung đánh giá.
Trong đó ngân hàng căn cứ vào nguồn thông tin mà khách hàng cung cấp và ngân hàng thu nhập để đánh giá các khoản vay, số lượng thông tin của mỗi khoản vay thu thập được căn cứ vào qui mô khoản vay và chi phí thu thập các thông tin đó.
Các thông tin chủ yếu bao gồm:
  • Khách hàng trì hoãn hoặc gây trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình sử dụng vốn vay, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính của khách hàng.
  • Khách hàng có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các qui định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng.
  • Khách hàng chậm hoặc trì hoãn thực hiện các báo cáo tài chính theo yêu cầu của ngân hàng mà không có sự giải thích minh bạch, không thuyết phục.
  • Có sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng mà không giải thích được lý do.
  • Chậm thanh toán các khoản lãi, phí khi đến hạn thanh toán.
  • Xuất hiện nợ đáo hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả vì những lý do: tiêu thụ hàng chậm, thu hồi công nợ chậm...
  • Mức độ vay thường xuyên gia tăng, vượt quá nhu cầu dự kiến.
  • Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản đảm bảo giảm sút so với định giá khi cho vay, có các dấu hiệu cho người khác thuê, bán hoặc trao đổi, phát sinh các tranh chấp...
  • Khách hàng có dấu hiệu trông chờ vào các khoản thu nhập bất thường khác không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
  • Khách hàng chấp nhận sử dụng nguồn vốn lãi suất cao với mọi điều kiện.
  • Ngân hàng dựa vào thời gian quá hạn của khoản nợ
Nhận diện theo hình thức này thường không chính xác vì trên thực tế có nhiều khoản nợ chưa quá hạn nhưng chất lượng nợ đã suy giảm, thậm chí không còn khả năng thu hồi.
3.3. Đo lường nợ xấu
Trên cơ sở kết quả nhận diện, các NHTM sẽ tiến hành đo lường đánh giá nợ xấu. Mục đích của việc đo lường nợ xấu là để xác định mức độ rủi ro, khả năng tổn thất có thể gây ra của nợ xấu và đánh giá từng tác động của nợ xấu đến hoạt động, kết quả kinh doanh của ngân hàng. Từ đó ngân hàng sẽ có những biện pháp thích hợp để hạn chế và xử lý. Có 02 phương pháp đo lường nợ xấu đó là phương pháp chỉ số và phương pháp thống kê đo lường theo mô hình hiện đại. Đến thời điểm hiện tại, Chi nhánh Ba Đình đang sử dụng chủ yếu là phương pháp chỉ số, cụ thể với những chỉ số như sau:
Tổng nợ xấu: Đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ các khoản nợ xấu của ngân hàng. Qua chỉ tiêu này cho biết quy mô và thực trạng về nợ xấu của ngân hàng.
Thời gian của từng khoản nợ xấu là khoảng thời gian tính từ thời điểm bắt đầu phát sinh nợ quá hạn. Chỉ tiêu này đánh giá các khoản nợ xấu của Ngân hàng đã phát sinh từ khi nào hay chỉ mới phát sinh. Trong tổng nợ xấu, sẽ có những món nợ đã phát sinh từ rất lâu hoặc các khoản mới phát sinh, có năm phát sinh nhiều nợ xấu và năm thì ít hơn, điều này cho thấy mức độ phức tạp của các khoản nợ xấu và năng lực trong việc xử lý nợ xấu của Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu cho biết trong 100 đơn vị tiền tệ dư nợ thì có bao nhiêu đồng là nợ xấu. Chính vì vậy, tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Nợ xấu phản ánh khả năng thu hồi vốn khó khăn, vốn của ngân hàng lúc này không ở mức độ rủi ro thông thường nữa mà nguy cơ mất vốn. Tỷ lệ càng cao chứng tỏ tổng nợ xấu của ngân hàng càng lớn. Tỷ lệ nợ xấu phản ánh những số dư nợ thực sự đang chuyển sang nợ xấu.
Hệ số phản ánh cứ 100 khách hàng vay vốn, thì có bao nhiêu khách hàng có nợ xấu. Nếu tỷ lệ này cao, phản ánh chính sách tín dụng của Ngân hàng là không hiệu quả hoặc chưa đạt hiệu quả. Trường hợp chỉ tiêu này thấp hơn chỉ tiêu nợ xấu sẽ cho biết nợ xấu tập trung vào những khách hàng lớn; ngược lại nếu chỉ tiêu này cao hơn chỉ tiêu nợ xấu thì nợ xấu tập trung vào những khách hàng nhỏ.
Tỷ lệ này phản ánh khả năng chống đỡ rủi ro tín dụng từ quỹ dự phòng. Nợ khả năng mất vốn thì các ngân hàng trích 100% số tiền dự phòng. Tuy nhiên, số tiền trích lập dự phòng rủi ro dựa trên giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm. Trong trường hợp hệ số bằng 1, cho thấy ngân hàng đủ khả năng chống đỡ rủi ro. Trường hợp hệ số <1 sẽ phản ánh ngân hàng không đảm bảo chống đỡ rủi ro các khoản nợ có khả năng mất vốn bằng quỹ dự phòng rủi ro.
3.4. Phân loại và kiểm soát nợ xấu
  1. Phân loại nợ xấu
Phân loại nợ xấu được hiểu là quá trình các ngân hàng xem xét các danh mục cho vay và đưa khoản vay vào các nhóm khác nhau dựa trên rủi ro và điểm tương đồng của khoản vay. Việc thường xuyên xem xét và phân loại nợ giúp các ngân hàng có thể kiểm soát chất lượng danh mục cho vay và trong trường hợp cần thiết, sẽ có các biện pháp xử lý các vấn đề phát sinh trong chất lượng tín dụng các danh mục cho vay. Thông thường, các ngân hàng sử dụng hệ thống phân loại nội bộ. hệ thống phân loại quy định bởi các nhà giám sát yêu cầu được sử dụng chủ yếu phục vụ mục tiêu báo cáo, so sánh và giám sát. Việc phân loại có sự khác biệt giữa các quốc gia và các ngân hàng do hệ thống phân loại khác nhau cũng như sự đánh giá của các cấp quản lý như quản lý ngân hàng, kiểm toán bên ngoài, thanh tra ngân hàng. Mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng vẫn chưa có quy định và tiêu chuẩn quốc tế thống nhất được thừa nhận. Thông thường tại các NHTM hiện nay, các khoản nợ tương đồng về mức rủi ro và khả năng không trả được nợ được phân vào cùng một nhóm. Việc phân loại thành bao nhiêu nhóm nợ và các nhóm được tính là nợ xấu tùy thuộc vào quy định của cơ quan giám sát ngân hàng từng quốc gia và hệ thống phân loại nợ nội bộ của từng ngân hàng. Ví dụ: ở Mỹ quy định 5 nhóm nợ, Brazil: 9 nhóm nợ, Mexico: 7 nhóm nợ, Singapore: 5 nhóm nợ, Việt Nam: 5 nhóm nợ. Một số nước không quy định cụ thể về số nhóm nợ mà cho phép các ngân hàng tự xác định và phân loại nợ theo hệ thống phân loại nợ nội bộ. Ví dụ: ở Anh và Hà Lan các ngân hàng phân loại nợ theo hệ thống phân loại nội bộ, cơ quan quản lý ngân hàng định kỳ sẽ xem xét, đánh giá tính phù hợp của hệ thống phân loại nợ. Ở Pháp quy định các yêu cầu tối thiểu về đánh giá nợ mà không có hướng dẫn cụ thể về phân loại nợ xấu, theo đó các ngân hàng tự xây dựng hệ thống phân loại nợ nội bộ theo yêu cầu của cơ quan quản lý.
Tại Việt Nam, hiện nay các ngân hàng tự thực hiện phân loại nợ, cam kết ngoại bảng theo quy định tại Thông tư số 02/2013/TT-NHNN của NHNN, theo đó nhóm nợ của khách hàng được xác định là nhóm nợ có rủi ro cao nhất dựa trên kết quả phân loại nợ theo phương pháp định lượng, phương pháp định tính và theo thông tin do CIC cung cấp. Các ngân hàng sẽ cung cấp CIC thông tin về khoản vay của khách hàng bao gồm: Tên người vay, tổ chức vay, quá trình thanh toán… Ngay sau đó, CIC sẽ nhanh chóng tổng hợp thành cơ sở dữ liệu phản ánh về lịch sử tín dụng của khách hàng. Căn cứ vào tình trạng tài chính, thời hạn thanh toán, lãi suất… CIC sẽ tiến hành phân loại nhóm nợ. Hiện, có 5 nhóm nợ như sau:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn: Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày. Đây là những món nợ trong hạn, có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý: là những món nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày. Khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn: Nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày. Khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 30 ngày trở lên. Được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi theo hợp đồng.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ mất vốn: Nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày. Khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 30 ngày đến 90 ngày. Khoản nợ được cơ cấu thời hạn trả nợ lần hai.
Nhóm 5: Dư nợ có khả năng mất vốn: Nợ quá hạn trên 360 ngày. Khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu từ 90 ngày trở lên. Khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2. Các khoản nợ cơ cấu thời hạn trả nợ lần ba trở lên.
Việc xác định nhóm nợ của khách hàng tại từng NHTM dựa vào Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của từng ngân hàng. Đây là hệ thống gồm các bộ chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, các quy trình đánh giá khách hàng trên cơ sở định tính và định lượng về mặt tài chính, tình hình kinh doanh, quản trị, uy tín của khách hàng, được xây dựng cho từng đối tượng khách hàng khác nhau, kể cả các đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng và những người có liên quan của đối tượng này, từ đó đưa ra hạng khách hàng và xác định nhóm nợ theo hạng khách hàng.
  1. Kiểm soát nợ xấu
Kiểm soát nợ xấu nhằm mục tiêu phòng chống và kiểm soát các rủi ro có thể phát sinh trong hoạt động ngân hàng, đảm bảo toàn bộ các bộ phận và các nhân viên trong ngân hàng tuân thủ các quy định của pháp luật, thực hiện các chiến lược, chính sách đảm bảo mục tiêu an toàn và hiệu quả trong hoạt động ngân hàng. Kiểm soát nợ xấu bao gồm 3 hoạt động:
Hoạt động thứ nhất: kiểm soát trước khi cấp tín dụng: Kiểm soát quá trình thiết lập chính sách, thủ tục, quy trình cấp tín dụng, kiểm tra quá trình lập hồ sơ vay vốn và thẩm định, các kiểm tra viên thực hiện đối chiếu với quy định để kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp của hồ sơ vay vốn, kiểm tra tính chính xác của số liệu thanh toán và thẩm định trên hồ sơ tín dụng; kiểm tra tờ trình cấp tín dụng và các hồ sơ liên quan đề tìm hiểu quan điểm của CBTD, ý kiến của phụ trách bộ phận tín dụng, xét duyệt của ban lãnh đạo và trình duyệt đối với trường hợp vượt thẩm quyền phán quyết.
Hoạt động thứ hai: kiểm soát trong khi cấp tín dụng: Kiểm soát một lần nữa hợp đồng tín dụng; kiểm tra quá trình giải ngân bao gồm đối chiếu xác nhận của khách hàng với số liệu tại ngân hàng để từ đó phát hiện các trường hợp vay hộ, lập hồ sơ giải ngân vay vốn. kê khai khống TSĐB; CBTD thu nợ. lãi không nộp ngân hàng, điều tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích xin vay hay không, giám sát thường xuyên khoản vay.
Hoạt động thứ ba: kiểm soát sau khi cấp tín dụng: Kiểm soát việc đôn đốc thu hồi nợ, kiểm soát tín dụng nội bộ độc lập, đánh giá lại chính sách tín dụng để rút kinh nghiệm cho những năm tới.
3.5 Xử lý nợ xấu
Để xử lý nợ xấu hiệu quả, ngân hàng phải căn cứ vào đặc điểm rủi ro từng khoản nợ để lựa chọn cách xử lý thích hợp nhằm có thể tận thu số nợ đã cho vay.
Hiện nay, các biện pháp xử lý nợ xấu được sử dụng bao gồm:
Thứ nhất, đôn đốc thu hồi nợ.
Các NHTM cần tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ xấu để từ đó đề ra biện pháp đôn đốc, thu hồi, xử lý phù hợp với từng khoản vay. Cần quản lý tài chính chặt chẽ với các khách hàng có nợ xấu, đặc biệt là các khách hàng lớn. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động thì cần tạo điều kiện để họ duy trì hoạt động bình thường. Các biện pháp đôn đốc thu hồi chỉ nên thực hiện trong một thời gian nhất định đồng thời cần vận dụng kết hợp với một số biện pháp khác.
Thứ hai, cơ cấu lại nợ.
Cơ cấu lại nợ là biện pháp được sử dụng khi một khoản nợ đến kỳ hạn trả nợ nhưng ngân hàng đánh giá khách hàng khó có khả năng trả nợ cho ngân hàng theo lịch trả nợ đã thỏa thuận trước đó do khách hàng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Trường hợp này ngân hàng có thể điều chỉnh kỷ hạn nợ hoặc gia hạn nợ nhằm tạo điều kiện cho khách hàng có thể có khả năng; trả nợ đầy đủ đúng hạn theo thời hạn được cơ cấu lại. Các khoản nợ được cơ cấu lại phải trên cơ sở khi cơ cấu lại khách hàng có khả năng khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó tạo nguồn thu để trả nợ cho ngân hàng.
Áp dụng biện pháp này đòi hỏi ngân hàng phải đánh giá chính xác khả năng phục hồi năng lực trả nợ sau khi cơ cấu lại. Trong trường hợp việc cơ cấu lại không cải thiện năng lực trả nợ
Thứ ba, cho vay tiếp để duy trì hoạt động.
Đây là biện pháp ngân hàng sử dụng cho các khách hàng có khó khăn tạm thời dẫn đến không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ. Trường hợp này, nếu xét thấy việc cho vay bổ sung vốn có thể giải quyết khó khăn, giúp khách hàng khôi phục năng lực sản xuất kinh doanh, từ đó có thể hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cũ và nợ mới. Phương án này có lợi đối với cả ngân hàng và khách hàng. Khách hàng có thể tránh được áp lực trả nợ để tiếp tục kinh doanh. Ngân hàng tránh giảm được nợ quá hạn.
Thứ tư, miễn giảm lãi.
Ngân hàng có thể áp dụng biện pháp miễn/giảm lãi cho vay đối với khách hàng nhằm thu hồi đủ số nợ gốc đã cho vay và một phần tiền lãi (nếu có). Biện pháp này được áp dụng nhằm giảm bớt khó khăn về tài chính cho khách hàng (khách hàng bị tổn thất về tài sản dẫn đến khó khăn về tài chính không trả được nợ), tạo điều kiện cho khách hàng khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh, ổn định cuộc sống, khuyến khích khách hàng trả một phần hoặc toàn bộ khoản nợ xấu còn lại tại ngân hàng.
Thứ năm, hỗ trợ khách hàng thu hồi công nợ.
Trong trường hợp khách hàng có khó khăn trong việc trả nợ do có quá nhiều khoản phải thu chưa thu được. Để hỗ trợ khách hàng có nguồn trả nợ, ngân hàng có thể hỗ trợ khách hàng, trong việc thu hồi công nợ. Đặc biệt, trong trường hợp các khoản phải thu của khách hàng có liên quan trực tiếp đến những đối tượng đang có quan hệ giao dịch với ngân hàng (là khách hàng vay vốn, gửi tiền tại ngân hàng), ngân hàng có thể dựa vào mối quan hệ của mình để hỗ trợ khách hàng thu hồi công nợ, từ đó hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.
Thứ sáu, xử lý tài sản đảm bảo.
Khi các khoản nợ xấu không thể cơ cấu, khách hàng chây ỳ không thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán nợ thì ngân hàng sẽ tiến hành các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
  • Thanh lý tài sản đảm bảo tiền vay.
Thông thuờng khi xét duyệt cho vay, khách hàng cần có tài sản bảo đảm nhất định để đảm bảo cho nghĩa vụ nợ tại ngân hàng. Khi khách hàng không trả nợ. ngân hàng sẽ xem xét áp dụng biện pháp xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Tài sản sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý để bàn giao cho ngân hàng, ngân hàng có thể sẽ tự bán công khai tài sản; hoặc bán qua trung tâm bán đấu giá tài sản, hoặc bán cho Công ty mua bán nợ.
  • Quản lý, khai thác tài sản: Tùy theo trường hợp cụ thể. ngân hàng có thể tiếp nhận tài sản, tiếp tục quản lý, khai thác tài sản để thu hồi nợ.
  • Yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bão lãnh: Trong trường hợp việc đòi nợ từ phía người vay gặp khó khăn, ngân hàng có thể yêu cầu nguời bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh dưới hình thức thanh toán nợ trực tiếp hoặc xử lý tài sản bảo đảm của người bảo lãnh.
Thứ bảy, bán nợ.
Là việc NHTM chuyển giao quyền chủ nợ đối với các khoản nợ hiện đang còn dư nợ hoặc đang theo dõi ngoại bảng tại ngân hàng cho tổ chức hoặc cá nhân trong và ngoài nước cỏ nhu cầu mua nợ. Việc chuyển giao khoản nợ được tiến hành đồng thời với việc chuyển giao các nghĩa vụ của bên nợ và các bên có liên quan. Một khoản nợ có thể được bán toàn phần hoặc toàn bộ, bán cho nhiêu bên mua nợ và có thể được mua. bán nhiều lần. Phương thức bán nợ có thể được thực hiện thông qua đấu giá các khoản nợ theo quy định về đấu giá tài sản hoặc thông qua đàm phán trực tiếp giữa bên bán hoặc bên mua hoặc thông qua môi giới.
Biện pháp này được ngân hàng sử dụng nhằm tận thu nợ xấu, khắc phục và xử lý được nợ tồn đọng, làm trong sạch, lành mạnh bảng cân đối kế toán, đảm bảo ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quà và phát triển bền vững. Ngân hàng thuờng áp dụng biện pháp này khi không muốn mất thời gian hoặc bản thân ngân hàng đã có một tổ chức chuyên môn hóa trong việc xử lý nợ đó là Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản. Việc bán lại các khoản nợ xấu (hay quyền đòi nợ) cho một tổ chức khác (có thể là một ngân hàng hoặc Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản) sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được nợ xấu. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp này ngân hàng thuờng phải chấp nhận bán lại các khoan nợ với giá trị thấp hơn quyền đòi nợ hiện tại. Từ đó gây ra những tổn thất nhất định đến kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Thứ tám, xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro.
Khi các biện pháp thu hồi khác không có hiệu quả, ngân hàng có thể dùng nguồn quĩ DPRR để bù đắp các khoản nợ xấu. Do tính chủ động cao nên biện pháp này thường được các NHTM vận dụng tối đa nhằm xử lý nợ nhanh chóng. Thực chất của biện pháp này là dùng nội lực của ngân hàng để khắc phục gánh nặng nợ xấu nên sẽ ảnh hường đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Việc sử dụng quá nhiều giải pháp này làm giảm thu nhập của ngân hàng trong khi vốn cho vay vẫn không thu hồi được. Vì vậy, ngân hàng nên chú trọng vào các giải pháp thu hồi có tính triệt để hơn. Dùng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro không có nghĩa là khoản nợ của khách hàng được xóa bỏ. Các khoản nợ này vẫn được tiêp tục theo dõi ngoại bảng và thu hồi khi khách hàng có thể trả nợ (một phần hay toàn bộ).
Thứ chín, chuyển nợ xấu thành vốn góp.
Đây là biện pháp ngân hàng xử lý nợ xấu thông qua việc dùng khoản nợ xấu để mua cổ phần của các khách hàng. Thực chất đây là biện pháp chuyển ngân hàng từ địa vị chủ nợ sang chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp đang có nợ xấu tại ngân hàng. Ngân hàng thường áp dụng biện pháp này khi các khách hàng gặp rủi ro trong kinh doanh do nguyên nhân khách quan song có triển vọng phục hồi hoặc các doanh nghiệp tạm thời sa sút hoặc đối với khách hàng có nợ lớn nhưng vẫn có cơ hội phục hồi. Áp dụng biện pháp này có thể giúp ngân hàng nhanh chóng xử lý khoản nợ xấu, làm sạch bảng cân đối kế toán. Tuy nhiên, nếu đánh giá khả năng phục hồi năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không chính xác: việc chuyển nợ thành vốn góp nhưng khách hàng không cải thiện được năng lực tài chính thì biện pháp này thực chất chỉ làm biến tướng khoản nợ xấu mà trên thực tể vẫn không thể thu hồi được.
Thứ mười, chứng khoán hóa các khoản nợ xấu.
Chứng khoán hóa các khoản nợ là kỹ thuật chuyển các khoản nợ thành chứng khoán có thể giao dịch trên thị trường tài chính. Để chứng khoán hóa các khoản nợ xấu, ngân hàng phải tập hợp các khoản nợ có đặc điểm tương đồng và bán cho các tổ chức chuyên về chứng khoán hóa (Special Purpose Verhical- SPV). Các tổ chức SPV sẽ phát hành các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản nợ được chứng khoán hóa ra thị trường.
Thực hiện chứng khoán hóa sẽ giúp cho các khoản nợ xấu không có tính thanh khoản thành các chứng khoán được mua bán trẽn thị trường một cách dễ dàng. Vì vậy, đây củng được coi là một biện pháp xử lý nợ xấu hiệu quả, giúp ngân hàng giảm rủi ro, tăng vốn khả dụng và giảm tổn thất tín dụng.
Tuy nhiên thực hiện biện pháp xử lý này đòi hỏi ngân hàng phải có một số lượng lớn các khoản nợ có tính chất tương đồng, thị trường tài chính hoạt động ổn định và đặc biệt phải có các tổ chức chuyên nghiệp SPV.
Mười một, shỗ trợ của Chính phủ.
Đối với các khoản nợ xấu phát sinh do các khoản vay theo chính sách của Chính phủ, các NHTM phải trông chờ vào nguồn bù đắp từ NSNN. Thực chất các khoản vay theo chính sách có thể coi là các khoản vay có bảo lãnh của người thứ ba là Chính phủ. Do vậy, khi NHTM không thể thu hồi được nợ từ khách hàng vay thuộc đối tượng này thì Chính phủ phải đứng ra giải quyết cho ngân hàng. Chính phủ cũng có thể sử dụng vốn ngân sách mua toàn bộ số nợ khó đòi của NHTM để xử lý dần trong một số năm nhằm giải thoát cho các NHTM không bị sa lầy vào khủng hoảng nợ xấu, giúp các ngân hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh.
Ngoài ra, trường hợp các khoản nợ xấu của hệ thống NHTM quá lớn, có thể tác động tiêu cực đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, Chính phủ cũng thường có các biện pháp hỗ trợ NHTM trong việc xử lý.
Biện pháp này có hạn chế là không thể áp dụng thường xuyên vì vốn ngân sách có hạn. Việc xử lý một khối lượng lớn nợ xấu sẽ rất tốn kém làm giảm ngân sách đầu tư cho các lĩnh vực khác, gây ảnh hưởng cho toàn bộ nền kinh tế. Biện pháp này nếu có thể chỉ là trong trường hợp đặc biệt khẩn cấp của khủng hoảng kinh tế mang tính dây chuyền có nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn tài chính quốc gia.
Mười hai, quy trách nhiệm cho cán bộ gây sai sót.
Trong trường hợp khoản nợ không thể thu hồi được do các nguyên nhân chủ quan từ phía cán bộ tín dụng, ngân hàng cân nghiêm khắc yêu cầu những người liên quan gây tổn thất có trách nhiệm bồi thường số tổn thất do mình gây nên. Biện pháp này một mặt giảm tổn thất cho ngân hàng. Mặt khác, nó còn có ý nghĩa răn đe, tăng cường việc tuân thủ kỷ luật nội bộ, giảm thiểu gian lận trong hoạt động nghiệp vụ của cán bộ tín dụng
Mười ba, khởi kiện hoặc yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp.
Ngân hàng sẽ phải sử dụng đến biện pháp pháp lý để đòi nợ khi các biện pháp trên không khả thi. Ngân hàng có thể nhờ tòa án can thiệp buộc khách hàng trả nợ, chuyển giao TSBĐ tiền vay hoặc nếu khách hàng là doanh nghiệp không trả được nợ thì ngân hàng với tư cách là chủ nợ có thể làm đơn xin tòa mở thủ tục tuyên bố phá sản theo Luật Phá sản. Trên thực tế, việc phải sử dụng đến biện pháp này thường không đem lại hiệu quả cao cho việc đòi nợ của ngân hàng do thủ tục rắc rối, khách hàng thường không còn khả năng trả nợ, TSĐB có tranh chấp về pháp lý hoặc không đủ giá trị bù đắp cho khoản vay... Bên cạnh đó, liên quan đến tranh chấp sẽ gây hiệu ứng xấu đến uy tín, hình ảnh của ngân hàng trên thị trường.
Để áp dụng biện pháp này đạt hiệu quả, ngân hàng cần đảm bảo hồ sơ khoản vay đầy đủ và phù hợp về mặt pháp lý. Ngân hàng thực hiện kiện khách hàng ra tòa để đòi nợ. Phán quyết của tòa án sẽ buộc khách hàng trả nợ hoặc chuyển giao tài sản báo đảm tiền vay cho ngân hàng để xử lý thu hồi nợ. Trường hợp khách hàng là các doanh nghiệp không trả được nợ, ngân hàng với tư cách là chủ nợ chính có thể làm đơn xin mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo Luật Phá sản.
Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này thường không mang lại nhiều kết quả do thủ tục rắc rối, mất nhiều thời gian và chế tài giám sát việc thi hành quyết định của tòa án chưa thật sự phát huy hiệu quả.
Tóm lại, có rất nhiều các biện pháp quản lý nợ xấu một NHTM có thể áp dụng theo thứ tự ưu tiên từ cấp độ thấp hơn đến cấp độ cao hơn xét theo góc độ của từng ngân hàng. Mỗi biện pháp đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Vì thế, tùy từng khoản vay, từng khách hàng cụ thể cũng như tùy từng giai đoạn khác nhau mà có thể áp dụng một cách linh hoạt các biện pháp nêu trên nhằm mang lại hiệu quả thu hồi nợ xấu tốt nhất.
4. Các nhân tố tác động đến quản lý nợ xấu của NHTM
4.1. Nhân tố chủ quan
 Thứ nhất, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ thực hiện công tác tín dụng
Trình độ, năng lực cán bộ thực hiện công tác tín dụng thể hiện ở trình độ học vấn, kinh nghiệm nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp. Việc quyết định cấp tín dụng đúng đắn hoặc sai sót của cán bộ nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến việc nợ xấu của Chi nhánh tăng hay giảm. Cán bộ thực hiện cấp tín dụng có đầy đủ năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp thì trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và trong việc quản lý nợ xấu nói riêng sẽ có nhiều thuận lợi và thu được kết quả cao. Ngược lại, cán bộ tín dụng quan liêu, xét duyệt cấp tín dụng không vô tư, thiếu hiểu biết pháp luật, thậm chí thoái hoá biến chất, báo cáo sai sự thật với cấp trên, đề xuất cấp tín dụng sai lầm, không trung thực sẽ làm tăng nợ xấu.
Thứ hai, cơ cấu tổ chức, điều hành và mô hình quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Sự yếu kém trong việc quản trị, điều hành và kiểm soát là nhân tố quan trọng góp phần làm cho hoạt động quản lý tín dụng của NHTM kém hiệu quả. Năng lực quản trị phản ánh khả năng đề ra và lựa chọn những chiến lược kinh doanh phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất như các chiến lược về hoạt động huy động vốn, cấp tín dụng, hoạt động thanh toán, dịch vụ, tổ chức bộ máy. Các quy trình về quản lý như: quản lý tài sản có, quản lý rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất…Từ đó tạo nên một chuẩn mực cho hoạt động ngân hàng thích nghi dần với phương thức quản trị hiện đại. Do đó, cơ cấu tổ chức và điều hành của của ngân hàng thương mại tốt thì hoạt động quản lý nói chung và quản lý nợ xấu sẽ tốt và ngược lại.
Bên cạnh đó, mô hình quản lý tín dụng là cách thức tổ chức quản lý, đo lường, kiểm soát rủi ro tín dụng nhằm khống chế rủi ro tín dụng trong một giới hạn cho phép theo nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận của tổ chức tín dụng. Trên cơ sở khái niệm đó, có thể hiểu một cách mở rộng hơn, mô hình quản lý rủi ro tín dụng chính là hệ thống các mô hình bao gồm mô hình tổ chức quản lý rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát rủi ro được xây dựng và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong hoạt động quản lý tín dụng của ngân hàng. Hiện nay đang có hai mô hình phổ biến được áp dụng, đó là mô hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung và mô hình quản lý rủi ro tín dụng phân tán.
Như vậy, có thể nói rằng, mô hình quản lý tín dụng và quản lý nợ xấu có một mối liên kết chặt chẽ với nhau, tương hỗ lẫn nhau trong việc tổ chức quản lý để giảm thiểu hoặc khống chế tốt nhất rủi ro tín dụng cũng như phát sinh nợ xấu. Cách thức tổ chức quản lý, đo lường, kiểm soát rủi ro tín dụng tốt, hợp lý thì quản lý nợ xấu ở Ngân hàng cũng được coi là phù hợp, giúp Ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu ở mức cho phép hoặc mức như mong muốn.
Thứ ba, năng lực tài chính của Ngân hàng Thương mại
Xử lý nợ xấu một cách triệt để đòi hỏi NHTM phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh, mà cụ thể ở đây là quy mô vốn. Thực tế trong số các biện pháp xử lý nợ xấu thì việc trích lập và sử dụng quỹ DPRR vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể. Tuy nhiên, không phải NHTM nào cũng có thể trích đủ DPRR theo quy định của pháp luật vì số thực trích DPRR tín dụng được tính vào chi phí và trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng. Thực tế đã có những NHTM lâm vào tình trạng năng lực tài chính quá thấp có khi phải mất đến mấy chục năm mới có thể xử lý hết nợ tồn đọng. Vì vậy, nâng cao năng lực tài chính, tăng quy mô vốn chủ sở hữu là điều kiện quan trọng giúp cho NHTM chủ động hơn trong công tác quản lý nợ xấu của mình. Các ngân hàng với tiềm lực tài chính mạnh cũng sẽ vững vàng hơn khi gặp phải khoản tổn thất lớn do nợ xấu gây ra. Tuy nhiên, ở các quốc gia đang phát triển còn cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ nhằm nâng cao năng lực tài chính cho NHTM.
Thứ tư, sự phát triển công nghệ ngân hàng
Công nghệ thông tin, cụ thể là công nghệ ngân hàng sẽ giúp xử lý được khối lượng thông tin rất lớn thông qua các giao dịch với khách hàng. Để từ đó, giúp phân tích và phát hiện khách hàng có tiềm ẩn rủi ro, những khoản nợ có khả năng trở thành nợ xấu. Đây chính là ưu việt của công nghệ thông tin hiện đại trong giúp ngân hàng quản lý tốt các khoản nợ xấu, cán bộ ngân hàng có thể giải quyết công việc nhanh gọn và chính xác. Từ đó, quản lý nợ xấu sẽ có xu hướng giảm xuống.
4.2. Nhân tố khách quan
Thứ nhất, môi trường pháp lý và môi trường kinh tế
Hầu hết Chính phủ các nước đều nhận ra tác động tiêu cực mà các khoản nợ xấu có thể gây ra đối với hệ thống NHTM và cả nền kinh tế. Vì vậy, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp như ban hành các văn bản, luật, hay các quy định về việc phòng ngừa và xử lý nợ xấu. Tạo ra một môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch thuận lợi và đủ mạnh để giải quyết nợ xấu. Ví dụ như phải có các Luật Về thế chấp, tịch thu tài sản; Luật Phá sản ngân hàng,... xây dựng các chính sách thích hợp, thay đổi suy nghĩ “giới hạn ngân sách mềm” bằng “giới hạn ngân sách cứng” đối với những doanh nghiệp có vấn đề.
Ở các nước phát triển trên thế giới, nhà nước đã ban hành luật để xử lý thu hồi nợ xấu vì đây là vấn đề quan trọng của đất nước. Cơ chế pháp lý có hiệu quả là cần phải có các biện pháp thích hợp để xử lý nợ, tránh tình trạng thủ tục rườm rà kéo dài qua nhiều tầng nấc. Ngoài môi trường pháp lý thì môi trường kinh tế lành mạnh, minh bạch, với sự phát triển đầy đủ của các thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản cũng là nhân tố ảnh hưởng rất mạnh đến hoạt động quản lý nợ xấu ngân hàng
Thứ hai, cơ chế chính sách
Các chính sách của nhà nước ổn định hay không ổn định cũng tác động đến chất lượng tín dụng. Khi các chính sách này không ổn định sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó gây trở ngại cho ngân hàng khi thu hồi nợ và ngược lại. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý của Nhà nước (quy định, định chế, nguyên tắc, phương thức vận hành...) có ảnh hưởng tới quản lý nợ xấu, bởi vì các ngân hàng đều chịu sự điều chỉnh bởi hệ thống luật pháp của nhà nước ban hành, do đó hoạt động quản lý nợ xấu cũng bị điều chỉnh và chịu ảnh hưởng từ hệ thống quy định trong hoạt động tín dụng.
Thứ ba, môi trường xã hội
Quan hệ tín dụng được thực hiện trên cơ sở lòng tin. Nó là cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng. Trong trường hợp môi trường xã hội không tốt, lợi dụng long tin để lừa đảo sẽ gây ra những rủi ro lớn cho ngân hàng, nợ xấu gia tăng.
Thứ tư, phẩm chất của khách hàng
Phẩm chất của khách hàng là nhân tố quyết định đến việc khách hàng sử dụng vốn vay có đúng và hiệu quả hay không. Nếu phẩm chất của khách hàng không tốt, thể hiện ở việc không sử dụng vốn đúng mục đích, không dự đoán được những biến động lên xuống của nhu cầu thị trường; không hiểu biết nhiều trong việc sản xuất, phân phối và khuếch trương sản phẩm… thì sẽ dễ dàng bị thất bại trong kinh doanh. Từ đó làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng, nợ xấu của ngân hàng sẽ gia tăng và ngược lại.
ThS. Mạnh Thị Thu Hiền – Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
 

Xem thêm »