Vừa qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 16/2023/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 36/2021/TT-BTC ngày 26 tháng 5 năm 2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp quy định tại Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13 tháng 10 năm 2015; Nghị định số 32/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 03 năm 2018; Nghị định số 121/2020/NĐ-CP ngày 09 tháng 10 năm 2020 và Nghị định số 140/2020/NĐ-CP ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Thông tư số 36/2021/TT-BTC).
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số 01/2023/TT-BLĐTBXH quy định mức điều chỉnh tiền lương và thu nhập tháng đã đóng bảo hiểm xã hội. Các quy định này áp dụng từ ngày 01/01/2023
Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành đã ký ban hành Nghị định số 82/2022/NĐ-CP ngày 18/10/2022 sửa đổi Nghị định 113/2017/NĐ-CP ngày 9/10/2017 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hóa chất.
Ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thực hiện Hiệp định RCEP; Nghiên cứu, rà soát ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
Ngày 29 tháng 11 năm 2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 97/2022/NĐ-CP quy định chính sách đối với người lao động dôi dư khi chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Phê duyệt Kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước giai đoạn 2022 - 2025 theo các hình thức: duy trì công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; cổ phần hóa, sắp xếp lại (bao gồm hình thức sáp nhập, giải thể); chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn nhà nước (sau đây gọi chung là thoái vốn) giai đoạn 2022 - 2025.
Thông tư số 32/2022/TT-BCT sửa đổi Thông tư số 05/2022/TT-BCT ngày 18/2/2022 quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định RCEP sẽ có hiệu lực từ đầu năm 2023.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/04/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2015/NĐ-CP “Về phát triển và quản lý nhà ở xã hội”, có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Trong đó, có nhiều nội dung mới, như quy định tất cả các dự án nhà ở thương mại từ 2 ha trở lên đối với đô thị đặc biệt và đô thị loại I; từ 5 ha trở lên đối với đô thị loại II, loại III phải dành 20% quỹ đất ở trong dự án để xây dựng nhà ở xã hội; đối với các dự án dưới 02 ha đối với đô thị đặc biệt và đô thị loại I, hoặc dưới 5 ha đối với đô thị loại II, loại III không phải dành 20% quỹ đất ở trong dự án để xây dựng nhà ở xã hội (trước đây quy định tất cả các dự án nhà ở thương mại không phân biệt quy mô diện tích đều phải dành quỹ đất trong dự án để phát triển nhà ở xã hội. Trong đó, dự án từ 10 ha trở lên phải xây dựng nhà ở xã hội trong dự án; dự án dưới 10 ha được lựa chọn thực hiện theo một trong 03 phương thức, hoặc xây dựng nhà ở xã hội trong dự án, hoặc hoán đổi bằng quỹ nhà ở xã hội khác có giá trị tương đương, hoặc trị giá bằng tiền để nộp ngân sách nhà nước); hoặc quy định thời hạn vay ưu đãi lên tối đa không quá 25 năm (trước đây quy định thời hạn vay tối thiểu 15 năm); hoặc tiền đặt cọc thuê nhà ở xã hội chỉ từ 01 - 03 tháng tiền thuê (trước đây quy định thời hạn vay tối thiểu 15 năm, hoặc phải đặt cọc từ 03 - 12 tháng tiền thuê nhà như quy định trước đây); hoặc giao cho Bộ Xây dựng hướng dẫn quy định về điều kiện, tiêu chí lựa chọn chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, kỳ vọng sẽ xử lý được vướng mắc về việc đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội đối với các thửa đất công là đất “sạch” (Ghi chú: Cho đến nay, chưa có tiêu chí thực hiện đấu thầu các thửa đất “sạch” do Nhà nước quản lý đã được quy hoạch phát triển nhà ở xã hội để lựa chọn chủ đầu tư, dẫn đến tình trạng các thửa đất công này bị “đắp chiếu” trong nhiều năm qua)…