Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Khó khăn, vướng mắc trong áp dụng thi hành Luật Hóa chất và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Hóa chấtLuật Hóa chất số 06/2007/QH12 được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2008, là sự thể chế hoá, hiện thực và cụ thể hoá một cách nhanh chóng và kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Sự ra đời của Luật Hóa chất là dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và tạo lập một hành lang pháp lý chính thức và thống nhất cho các hoạt động hóa chất trên cả nước.Nhìn nhận và đánh giá một cách tổng thể, Luật Hóa chất tương đối toàn diện và tiến bộ, với các chế định được thiết kế phù hợp với hoàn cảnh và các điều kiện kinh tế cụ thể của ngành hóa chất Việt Nam, đồng thời phù hợp với xu hướng phát triển chung của quản lý hóa chất trên thế giới.
Luật Hóa chất đã được sửa đổi, bổ sung một lần theo Luật số 28/2018/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật có liên quan đến quy hoạch. Tuy nhiên, việc sửa đổi này chỉ bao gồm bãi bỏ các nội dung liên quan đến quy hoạch ngành hóa chất để phù hợp với Luật quy hoạch, không thay đổi đối tượng, phạm vi hay các chính sách quản lý hóa chất của Luật. Như vậy, có thể nói đến nay, Luật Hóa chất đã có 14 năm thi hành ổn định, là một trong những Luật chuyên ngành có thời gian thi hành ổn định lâu nhất.
Luật Hóa chất có 10 chương, 71 Điều, bao gồm nhiều quy định khác nhau, nhưng có thể chia thành 5 nhóm: (1) Các vấn đề chung: phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, phân công trách nhiệm…; (2) Phát triển công nghiệp hóa chất; (3)Quản lý sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu, sử dụng, thải bỏ hóa chất (bao gồm: hóa chất hạn chế, hóa chất có điều kiện, kiểm soát mua bán hóa chất độc, khai báo hóa chất, sử dụng hóa chất…); (4)Các quy định về quy phạm kỹ thuật, an toàn hóa chất: cơ sở vật chất, kỹ thuật nhà xưởng, kho chứa; phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất, huấn luyện an toàn hóa chất…; (5) Quy định về thông tin hóa chất: Phân loại, ghi nhãn, bao gói, phiếu an toàn hóa chất, đăng ký và đánh giá hóa chất mới, danh mục hóa chất….
Với đặc thù của hóa chất là sản phẩm phổ biến, được sử dụng rộng khắp trong đời sống người dân và hầu hết các hoạt động công nghiệp nhưng lại tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng cả trong ngắn hạn và dài hạn đến sức khỏe con người và môi trường, việc triển khai quản lý chặt chẽ các hoạt động hóa chất theo quy định của Luật Hóa chất góp phần hiện thực hóa chủ trương “phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu” đã được nêu rõ tại Văn kiện Đại hội Đảng XIII.
Theo quy định của Luật Quy hoạch được Quốc hội ban hành năm 2017, các điều khoản quy định về quy hoạch phát triển công nghiệp hóa chất trong Luật Hóa chất bị bãi bỏ. Do vậy, Luật Hóa chất hiện nay thiếu các quy định làm cơ sở pháp lý thúc đẩy phát triển công nghiệp hóa chất dần đóng vai trò nên tảng cho sự phát triển chung của nền công nghiệp Việt Nam, đồng thời định hướng các nhà đầu tư ưu tiên các công nghệ tiên tiến theo hướng xanh, thân thiện môi trường, dựa trên “phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyên đổi số” để bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tại thời điểm ban hành và giai đoạn đầu sau khi Luật Hóa chất có hiệu lực, được thực thi trong cả nước, các quy định của Luật có tính toàn diện, phù hợp với các văn bản pháp luật quản lý các lĩnh vực khác hiện hành, tạo sự đồng bộ về cơ sở pháp lý nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển công nghiệp hóa chất, đảm bảo an toàn, bảo vệ môi trường trong hoạt động hóa chất.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, nhiều quy định pháp luật mới như Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Luật Phòng chống ma túy, Luật Quản lý, sử dụng Vũ khí, Vật liệu nổ và Công cụ hỗ trợ, Luật Bảo vệ môi trường được ban hành sau này với nhiều điểm đổi mới so với thời điểm ban hành Luật Hóa chất. Những thay đổi này cùng với xu hướng chuyển hệ thống quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm, cải cách, hiện đại hóa hành chính dẫn tới việc các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hóa chất phải thay đổi theo, dần làm giảm tính hài hòa, thống nhất trong toàn bộ hệ thống quy định về quản lý hóa chất.
Trong quá trình triển khai các quy định của Luật Hóa chất và các văn bản hướng dẫn, về cơ bản đã thể hiện tính khả thi cao cả về khả năng thực thi trong thực tế của các cơ quan quản lý nhà nước, đối tượng quản lý và việc tạo ra hiệu quả cao về kinh tế và xã hội như đã nêu.
Tuy nhiên, trong bối cảnh chương trình cải cách hành chính đang được triển khai rộng khắp, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng với nền kinh tế thế giới, hệ thống quy định về quản lý hóa chất cần có những thay đổi phù hợp, hài hòa với hệ thống quản lý của các nước.
I. CÔNG TÁC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ QUẢN LÝ HÓA CHẤT
1. Tổ chức bộ máy thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hóa chấ
a) Thành lập cơ quan quản lý về hoạt động hóa chất cấp Trung ương
Theo quy định tại khoản 2 Điều 63 Luật Hóa chất, Chính phủ quyết định thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của cơ quan nhà nước quản lý về hoạt động hóa chất thuộc Bộ Công Thương để giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động hóa chất.
Sau 6 tháng khi Luật Hoá chất có hiệu lực, ngày 02 tháng 01 năm 2009, Cục Hóa chất được thành lập theo Quyết định số 01/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, với chức năng tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện quản lý nhà nước theo quy định pháp luật về hoá chất, đồng thời đề xuất, xây dựng cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hoá chất thuộc trách nhiệm của Bộ Công Thương. Ngay sau khi được thành lập, Cục Hóa chất đã tập trung ngay vào việc ổn định tổ chức, phát triển đội ngũ, xây dựng cơ sở vật chất, đồng thời tập trung vào việc xây dựng bổ sung hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quản lý hoá chất làm cơ sở cho công tác quản lý nhà nước về hóa chất, từng bước tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực thi chính sách, pháp luật về hóa chất.
b) Tổ chức bộ máy thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hóa chất tại các địa phương
Triển khai thực hiện Luật Hóa chất, UBND các tỉnh, thành phố đã tiến hành giao nhiệm vụ quản lý hoạt động hóa chất tại địa phương cho các Sở ngành liên quan. Sở Công Thương là cơ quan chuyên môn đầu mối quản lý nhà nước về hoạt động hóa chất trên địa bàn tỉnh, thành phố; trực tiếp quản lý hoạt động hóa chất trong ngành công nghiệp. Các Sở ngành khác như Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Y tế, Sở Khoa học và Công nghệ, Công an tỉnh... được giao quản lý hoạt động hóa chất trong lĩnh vực chuyên ngành theo chức năng, nhiệm vụ được phân công của từng đơn vị, lực lượng.
Công tác quản lý hóa chất đã có sự vào cuộc tích cực của các cơ quan chuyên môn địa phương, được các địa phương ngày càng quan tâm hơn và chủ động triển khai thông qua các chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo điều hành…
Tuy nhiên, nhân lực trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực hóa chất còn mỏng. Nhiều Sở ngành, UBND tỉnh, thành phố thiếu cán bộ chuyên môn, kinh nghiệm về công tác quản lý hóa chất, thường là kiêm nhiệm. Theo số liệu báo cáo từ các Sở Công Thương, số lượng công chức được phân công chuyên trách về quản lý hóa chất còn thiếu so với khối lượng công việc. Trong số lãnh đạo, công chức chuyên trách, công chức kiêm nhiệm về quản lý hóa chất chỉ có 24 người có trình độ đào tạo đại học và sau đại học chuyên ngành hóa chất.
Kinh phí thực hiện công tác quản lý hóa chất chưa được địa phương quan tâm phân bổ mà chủ yếu từ nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên của đơn vị chuyên môn. Cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị chuyên dụng ứng phó sự cố hóa chất, thiết bị phục vụ công tác kiểm tra, kiểm định chất lượng sản phẩm hóa chất, hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm còn thiếu. Công tác quản lý hóa chất vì thế gặp rất nhiều khó khăn.
Sự phối hợp, kết nối, chia sẻ thông tin liên quan đến quản lý hóa chất giữa các ngành như công thương, nông nghiệp và phát triển nông thôn, y tế, giáo dục... ở trung ương và địa phương còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các địa phương còn thiếu chặt chẽ nên việc kiểm soát, quản lý các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh, lưu thông hóa chất trên nhiều địa bàn còn gặp khó khăn.
2. Công tác ban hành các văn bản hướng dẫn, thi hành Luật Hóa chất
Ngay sau khi Luật Hóa chất được ban hành, Bộ Công Thương đã nhanh chóng xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành (chi tiết hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực hóa chất tại Phụ lục 1 kèm theo):
- Nghị định số 108/2008/NĐ-CP ngày 07 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hóa chất, kèm theo đó là Thông tư số 28/2010/TT-BCT ngày 28 tháng 6 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định cụ thể một số điều của Luật Hóa chất và Nghị định số 108/2008/NĐ-CP.
- Nghị định số 26/2011/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2008/NĐ-CP và một loạt các Thông tư hướng dẫn như: Thông tư số 40/2011/TT-BCT quy định về khai báo hóa chất, Thông tư số 04/2012/TT-BCT quy định phân loại và ghi nhãn hóa chất, Thông tư số 20/2013/TT-BCT quy định về kế hoạch và Biện pháp phòng ngừa sự cố hóa chất trong lĩnh vực công nghiệp, Thông tư số 07/2013/TT-BCT quy định việc đăng ký sử dụng hóa chất nguy hiểm để sản xuất sản phẩm, hàng hóa trong lĩnh vực công nghiệp, Thông tư số 36/2014/TT-BCT về huấn luyện kỹ thuật an toàn hóa chất và cấp Giấy chứng nhận huấn luyện kỹ thuật an toàn hóa chất.
- Thực hiện chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ, ngày 09 tháng 10 năm 2017 Nghị định số 113/2017/NĐ-CP được ban hành để thay thế Nghị định số 108/2008/NĐ-CP và Nghị định số 26/2011/NĐ-CP; các Thông tư hướng dẫn thực hiện hai Nghị định nêu trên được sửa đổi, bổ sung và hợp nhất vào một Thông tư hướng dẫn Nghị định số 113/2017/NĐ-CP và một số điều của Luật Hoá chất (Thông tư số 32/2017/TT-BCT ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Công Thương). Về nội dung, nhiều quy định đã được sửa đổi bổ sung để phù hợp diễn biến thực tiễn, phù hợp xu hướng quản lý hoá chất của thế giới; thực hiện nghiêm túc chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm và đơn giản hoá điều kiện đầu tư kinh doanh, tăng cường hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước đồng thời tạo thuận lợi phát triển doanh nghiệp, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia.
- Bên cạnh đó, Bộ Công Thương còn chủ động ban hành một số Thông tư ban hành các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hóa chất làm cơ sở để các đơn vị hoạt động hóa chất và cơ quan quản lý nhà nước tổ chức thực hiện về các lĩnh vực:
+ An toàn trong hoạt động hóa chất: Thông tư số 48/2020/TT-BCT ngày 21 tháng 12 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành QCVN 05A: 2020/BCT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong sản xuất, kinh doanh, sử dụng, bảo quản và vận chuyển hóa chất nguy hiểm; Thông tư số 37/2020/TT-BCT ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định Danh mục hàng hóa nguy hiểm phải đóng gói trong quá trình vận chuyển và vận chuyển hàng hóa nguy hiểm bằng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa.
+ Quản lý hóa chất trong sản phẩm công nghiệp, tiêu dùng: Thông tư số 30/2011/TT-BCT ngày 10 tháng 8 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định tạm thời về giới hạn hàm lượng cho phép của một số hóa chất độc hại trong sản phẩm điện, điện tử; Thông tư số 51/2020/TT-BCT ban hành QCVN 08:2020/BCT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về giới hạn hàm lượng chì trong sơn; Thông tư số 45/2020/TT-BCT ban hành QCVN 02A: 2020/BCT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hàm lượng thủy ngân trong đèn huỳnh quang.
+ Chất lượng sản phẩm hàng hóa hóa chất: Thông tư số 46/2020/TT-BCT ban hành QCVN 03A: 2020/BCT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng natri hydroxit công nghiệp; Thông tư số 47/2020/TT-BCT ban hành QCVN 04A: 2020/BCT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng tiền chất thuốc nổ sử dụng để sản xuất vật liệu nổ công nghiệp; Thông tư số 49/2020/TT-BCT ban hành QCVN 06A: 2020/BCT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng Poly Aluminium Chloride (PAC); Thông tư số 50/2020/TT-BCT ban hành QCVN 07A: 2020/BCT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng amôniac công nghiệp.
Theo phân công tại Luật Hoá chất, các bộ, ngành cũng đã ban hành và trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ công tác quản lý hóa chất trong các lĩnh vực chuyên ngành được phân công (y tế, nông nghiệp, quốc phòng…).
Tuy nhiên, một số nội dung quy định tại Luật Hóa chất cần hướng dẫn, xây dựng vẫn chưa được hoàn thành:
- Do những nguyên nhân khách quan, đến nay chưa có quy định cụ thể, Quy chuẩn kỹ thuật hoặc Thông tư hướng dẫn về thiết lập khoảng cách an toàn giữa cơ sở sản xuất, kinh doanh, cất giữ, sử dụng hóa chất nguy hiểm tới các điểm dân cư, công trình công cộng, di tích lịch sử, văn hóa… theo quy định tại Điều 22 Luật Hóa chất.
- Chưa xây dựng và ban hành Danh mục hóa chất quốc gia, chưa ban hành được quy định về quản lý và đánh giá hóa chất mới theo quy định tại Điều 46, Điều 55 Luật Hóa chất.
- Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các loại hóa chất cần được kiểm soát về chất lượng còn thiếu; Hệ thống tiêu chuẩn an toàn đối với trang thiết bị trong hoạt động hóa chất còn hạn chế, chưa điều chỉnh hết các hoạt động liên quan các loại hóa chất nguy hiểm; quy định về điều kiện an toàn trong hoạt động hóa chất còn thiếu cụ thể dẫn đến khó thực thi.
Các lĩnh vực y tế, nông nghiệp... tuy đều có các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý hóa chất và phát huy hiệu quả trong thực tế, nhưng cách thức quản lý hóa chất tại các văn bản này có nhiều điểm khác nhau và chưa được quy định rõ ràng tại Luật Hóa chất để phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020, dẫn đến sự triển khai thiếu đồng bộ giữa các ngành.
II. CÔNG TÁC XÂY DỰNG HẠ TẦNG THÔNG TIN HÓA CHẤT
1. Những điểm đạt được
Ngày 06 tháng 12 năm 2018, Bộ Công Thương đã tổ chức Lễ công bố vận hành Cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia (CSDLHCQG) tại địa chỉ www.chemicaldata.gov.vn. Hệ thống lưu trữ CSDLHCQG là công cụ rất quan trọng trong công tác quản lý hóa chất của mỗi quốc gia, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước ở cấp Trung ương, địa phương, hỗ trợ hiệu quả trong việc quản lý an toàn hóa chất cho các doanh nghiệp có hoạt động hóa chất và cộng đồng xung quanh. CSDLHCQG góp phần từng bước hiện đại hóa cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ngành hóa chất, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, hỗ trợ đắc lực cho công cuộc cải cách thủ tục hành chính, tạo nền tảng xây dựng nền hành chính điện tử trong phạm vi ngành hóa chất, góp phần đưa đất nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Từ thực trạng quản lý hóa chất ở Việt Nam cho thấy cần thiết phải có một Cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia để tổng hợp số liệu về ngành hóa chất một cách toàn diện nhằm chia sẻ thông tin giữa các đơn vị quản lý làm cơ sở đầu vào cho việc ra quyết định, ban hành các quy hoạch, chính sách phát triển ngành phù hợp với thực tiễn, tránh hiện tượng chồng chéo trong quản lý.
- Hệ thống lưu trữ cơ sơ dữ liệu hóa chất quốc gia không những khắc phục được các yếu kém về việc chia sẻ thông tin quản lý giữa các cơ quan địa phương với các cơ quan trung ương, mà còn đáp ứng được yêu cầu nâng cao khả năng phối hợp, giải quyết công việc giữa các đơn vị trong việc quản lý, điều hành nghiệp vụ của ngành trong giai đoạn tới, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính gắn liền với việc xây dựng “Chính phủ điện tử” theo định hướng của Đảng, Chính phủ và Bộ Công Thương. Hệ thống lưu trữ CSDL hóa chất quốc gia sẽ trở thành công cụ giao tiếp giữa Bộ Công Thương - Cục Hóa chất, các Sở Công Thương và các tổ chức, cá nhân có hoạt động hóa chất.
- Trước khi CSDL được vận hành, một khối lượng dữ liệu về quản lý hóa chất rất lớn đang được lưu trữ tản mạn dưới dạng tài liệu giấy tại Cục Hóa chất, các dịch vụ công trực tuyến, phần mềm hỗ trợ khai báo hóa chất, các cơ quan quản lý hóa chất tại địa phương nhưng chưa được tập trung, xử lý một cách khoa học và toàn diện. CSDL hóa chất quốc gia đã bước đầu khắc phục một cách cơ bản tình trạng này. Hệ thống lưu trữ CSDL hóa chất quốc gia là đầu mối tập trung và xử lý thông tin duy nhất, từ đó giúp tăng cường hiệu quả công tác khai thác và sử dụng thông tin phục vụ xây dựng quy hoạch, quản lý, điều hành phát triển ngành công nghiệp hóa chất.
- Hệ thống lưu trữ CSDL hóa chất quốc gia với đầy đủ chức năng thông tin về pháp luật, chính sách, quy định, thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng hóa chất là kênh cung cấp thông tin chính thức, đáp ứng nhu cầu tiếp cận, khai thác thông tin, dữ liệu phục vụ các doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định quản lý hóa chất cũng như xây dựng các kế hoạch kiểm soát rủi ro, nguy hiểm của hóa chất đến môi trường và cộng đồng.
- CSDLHCQG hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện báo cáo hoạt động hóa chất (theo quy định của Thông tư số 32/2017/TT-BCT) một cách thuận lợi qua môi trường mạng. Qua đó CSDLHCQG có khả năng tổng hợp, lưu giữ toàn bộ dữ liệu hoạt động hóa chất trên phạm vi cả nước.
- Các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển đã đẩy mạnh việc quản lý hóa chất dựa trên một hệ thống đánh giá rủi ro hóa chất, hệ thống này rất phức tạp đòi hỏi xem xét đến rủi ro của hóa chất đến sức khỏe cộng đồng và môi trường ở cả hai khía cạnh tính chất nguy hiểm của hóa chất và lượng hóa chất được sản xuất, sử dụng, kinh doanh. Việc đánh giá rủi ro hóa chất để đưa ra quy định quản lý là bước đi đúng đắn, sử dụng nguồn lực của cơ quan quản lý nhà nước và của xã hội nhằm tập trung giảm thiểu rủi ro, nguy hiểm của hóa chất. Xây dựng CSDLHCQG là bước đi đầu tiên và quan trọng để tiến hành chuyển hướng quản lý hóa chất theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế chung của thế giới.
2. Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh nhứng kết quả đã đạt được, CSDL mới vận hành trong giai đoạn đầu còn nhiều nội dung, chức năng cần hoàn thiện:
- Thiếu liên kết với hệ thống cơ sở dữ liệu hóa chất của các ngành, lĩnh vực khác như y tế, nông nghiệp...;
- Dữ liệu hóa chất trong lĩnh vực công nghiệp, thông tin về hoạt động hóa chất của nhiều doanh doanh nghiệp, một số Sở Công Thương chưa được cập nhật;
- Sự thiếu toàn diện và dữ liệu đầu vào dẫn tới các chức năng về đánh giá rủi ro hóa chất, hỗ trợ các lực lượng trực tiếp ứng phó sự cố hóa chất chưa được phát triển để đáp ứng nhu cầu.
III. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ HÓA CHẤT
Để Luật Hóa chất thực sự phát huy hiệu quả, từng bước đi sâu vào đời sống xã hội và cộng đồng doanh nghiệp, các cơ quan quản lý hóa chất tại trung ương và địa phương luôn quan tâm chú trọng và nỗ lực triển khai các hoạt động tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức về pháp luật trong lĩnh vực hóa chất cho cộng đồng xã hội và doanh nghiệp.
- Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong lĩnh vực hóa chất đã được triển khai trên diện rộng với nhiều nhóm đối tượng khác nhau, từ cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng đến các cơ quan quản lý nhà nước và cả các cán bộ, giảng viên, sinh viên tại trường đại học trong cả nước.
- Hình thức tuyên truyền đa dạng gồm giải đáp pháp luật, tổ chức hội thảo, diễn đàn, khóa đào tạo, phát hành nhiều loại ấn phẩm, báo cáo nghiên cứu, tờ rơi… Nội dung tuyên truyền không chỉ dừng lại ở lý thuyết mà còn đề cập đến thực tế hoạt động hóa chất, từ đó tạo cơ hội phân tích, tranh luận sâu rộng về nhiều vấn đề bất cập trong quy định của Luật Hóa chất và trong hoạt động thực thi của cơ quan quản lý.
- Bên cạnh đó, để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hóa chất, Nghị định số 113/3017/NĐ-CP đã quy định về hoạt động huấn luyện an toàn hóa chất theo hướng xã hội hóa, mở rộng đối tượng, đa dạng hóa hình thức huấn luyện và định kỳ huấn luyện lại. Nội dung huấn luyện bao gồm các quy định pháp luật về quản lý hóa chất, an toàn hóa chất, thực hành các phương án ứng phó sự cố hóa chất với thời lượng phù hợp cho các đối tượng khác nhau từ lãnh đạo, cán bộ quản lý, làm việc gián tiếp và người lao động trực tiếp. Quy định này góp phần nâng cao nhận thức, cập nhật thông tin về quy định pháp luật, an toàn hóa chất cho các doanh nghiệp và người lao động làm việc với hóa chất.
Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong lĩnh vực hóa chất của các cơ quan quản lý cũng có thể được phản ánh qua mức độ nhận thức của cộng đồng xã hội và doanh nghiệp ngày càng được nâng cao. Hiểu biết của doanh nghiệp về Luật Hóa chất không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi hiệu quả pháp luật trong lĩnh vực hóa chất mà còn có ý nghĩa tích cực đối với chính hoạt động hóa chất của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền chưa thực sự sâu rộng, chưa đến được hết với cộng đồng doanh nghiệp. Vẫn còn tình trạng một số đơn vị, cơ sở đặc biệt là đơn vị có quy mô nhỏ lẻ, không chủ động trong việc nghiên cứu và áp dụng pháp luật, chưa nắm bắt kịp thời những quy định trong quản lý nhà nước về hóa chất, việc chấp hành các quy định pháp luật còn hạn chế.
IV. KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC
1. Khó khăn, vướng mắc trong quy định của Luật Hóa chất
a) Về quy định chung
Luật Hóa chất hiện nay chưa quy định rõ ràng và chính xác phạm vi và đối tượng áp dụng các hoạt động quản lý, cụ thể như: chưa phân định được hóa chất, hỗn hợp hóa chất ; chưa phân định cụ thể hoạt động sản xuất hóa chất và các hoạt động phối trộn, pha loãng hóa chất; khái niệm về hóa chất độc chưa phù hợp thực tế...
Hóa chất tồn tại dưới nhiều trạng thái khác nhau và sử dụng trong nhiều lĩnh vực, do vậy các khái niệm chưa phân định rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến xác định đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật, phân công trách nhiệm và phối hợp trong quản lý giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
b) Về phát triển công nghiệp hóa chất
Trong quá trình tổng kết thi hành Luật Hóa chất hiện hành, đã phát hiện một số vấn đề bất cập, chưa rõ ràng hoặc chưa được quy định, cụ thể:
- Luật Hóa chất chỉ điều chỉnh với các hóa chất (bao gồm chất, hợp chất, hỗn hợp chất), tạm hiểu là các hóa chất cơ bản. Do đó, các quy định đối với dự án hóa chất trong Luật chỉ áp dụng với dự án hóa chất cơ bản. Tuy nhiên, theo phân ngành công nghiệp, công nghiệp hóa chất gồm 10 lĩnh vực: phân bón, hóa chất cơ bản, hóa dược, hóa dầu, các sản phẩm cao su, sơn - mực in, khí công nghiệp, nguồn điện hóa học (pin, ắc quy), hóa chất bảo vệ thực vật, sản phẩm chất tẩy rửa, hoá chất tiêu dùng. Do đó, “dự án hóa chất” trong công tác phát triển công nghiệp hóa chất cần được hiểu rộng hơn;
- Hiện nay, hóa chất không phải là ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư và không được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 16 Luật Đầu tư năm 2020 về ngành, nghề ưu đãi đầu tư. Đến ngày 26/3/2021, theo Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, sản xuất hóa dầu, hóa dược, hóa chất cơ bản và cao su mới được đưa vào danh mục ngành, nghề ưu đãi đầu tư. Thực tế, hầu như chỉ có các đại dự án hoặc các dự án đầu tư vào các địa bàn khó khăn, chính quyền địa phương ưu tiên tối đa để thu hút phát triển công nghiệp được hưởng ưu đãi. Các nhà đầu tư hóa chất quy mô vừa và nhỏ hầu như không tiếp cận được các chính sách ưu đãi đầu tư, vì thế còn dè dặt khi còn thiếu những cơ chế hấp dẫn và có tính ổn định;
- Hiện nay, theo quy định của Luật Quy hoạch năm 2017, các quy hoạch ngành hóa chất, quy hoạch các sản phẩm hóa chất đã hết hiệu lực thi hành. Điều 8, Điều 9 của Luật Hóa chất đã được bãi bỏ theo quy định của Luật số 28/2018/QH14 ngày 15 tháng 6 năm 2018 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 luật có liên quan đến quy hoạch. Hoạt động đầu tư, phát triển ngành công nghiệp hóa chất được thực hiện theo các chiến lược phát triển, do đó cần bổ sung các quy định về trách nhiệm xây dựng và thực hiện chiến lược;
- Các quy định về yêu cầu đối với dự án sản xuất, kinh doanh hóa chất tại Luật Hóa chất tập trung các yêu cầu đảm bảo an toàn hóa chất và bảo vệ môi trường, chưa đề cập đến các yêu cầu về định hướng phát triển ngành, chất lượng sản phẩm hay các yêu cầu về hóa học xanh. Hiện nay, còn nhiều cơ sở hóa chất sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, ô nhiễm môi trường, nằm xem kẽ trong khu dân cư, tiềm ẩn nhiều ngu cơ rủi ro.
- Luật Hóa chất chưa có quy định về quản lý dự án hóa chất. Thời gian qua, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc kết quả thanh tra cho thấy mức độ chấp hành quy định pháp luật của nhiều dự án hóa chất chưa đảm bảo từ việc phê duyệt chủ trương đầu tư, thẩm định thiết kế, chứng chỉ hoạt động xây dựng, điều chỉnh tổng mức đầu tư... làm tăng tiến độ, giảm hiệu quả đầu tư...
- Chưa có quy định đối với tổ chức, cá nhân tư vấn dự án hóa chất. Việc cấp chứng chỉ năng lực hoạt động xây dựng hiện nay không cấp riêng cho lĩnh vực hóa chất, thay vào đó, Bộ Xây dựng chỉ cấp cho tổ chức cá nhân hoạt động đối với công trình công nghiệp, công nghiệp nhẹ, và công nghiệp nặng, việc thực hiện chỉ vận dụng đối với các tổ chức, cá nhân được công nhận đối với công trình công nghiệp;
- Theo quy định tại Điều 36 Luật Hóa chất quy định: Chủ đầu tư chỉ được đưa dự án vào hoạt động sau khi Kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất đã được phê duyệt. Thực tế, các Kế hoạch thường được thẩm định khi dự án đã hoàn thành thi công xây dựng và trước khi đưa vào hoạt động chính thức. Trong một số trường hợp, quá trình thẩm định kế hoạch phát sinh yêu cầu cải tạo một số hạng mục hay bổ sung các giải pháp kỹ thuật để đảm bảo an toàn hóa chất, dẫn đến những thay đổi so với hồ sơ thiết kế và hồ sơ hoàn công.
Thực tế cho thấy, hóa chất đóng vai trò quan trọng và có mặt hầu hết các hoạt động kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp. Đặc thù của ngành công nghiệp hóa chất thường là các dự án công nghiệp với mức đầu tư lớn, sử dụng đông lực lượng lao động, thời gian hoạt động kéo dài, đồng thời có nguy cơ phát thải hóa chất ảnh hưởng đến sức khỏe con người, có nguy gây ô nhiễm môi trường hoặc phát thải các chất gây biến đổi khí hậu. Nhiều dự án hóa chất trong thời gian qua đã gây hoang mang dư luận về nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến môi trường sinh thái. Do vậy, việc phát triển ngành công nghiệp hóa chất theo hướng hiện đại, giảm thiểu phát thải chất gây ô nhiễm, chất gây hiệu ứng nhà kính đóng vai trò quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu bảo vệ sức khỏe con người, môi trường và chống biến đổi khí hậu. Để thực hiện được việc này, trong quá trình triển khai các dự án hóa chất, việc lựa chọn địa điểm, lựa chọn công nghệ, xây dựng các phương án bảo đảm an toàn, bảo vệ môi trường ngay từ giai đoạn xây dựng dự án đóng vai trò quan trọng quyết định hiệu quả, tác động tích cực đến nền công nghiệp nói riêng, kinh tế nói chung và đảm bảo sự phát triển bền vững của dự án.
c) Về quản lý sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu hóa chất
Luật hóa chất và các văn bản hướng dẫn còn thiếu các quy định phù hợp để quản lý các đối tượng sản xuất, kinh doanh hóa chất có tính chất đặc thù như: (i) sản xuất, kinh doanh hóa chất nhỏ lẻ (khó khăn trong việc áp dụng các quy định chung về điều kiện sản xuất, kinh doanh hóa chất), (ii) các đơn vị thực hiện kinh doanh hoá chất trung gian, không lưu trữ hoá chất; (iii) hoạt động tồn trữ hóa chất tại các khó ngoại quan, cảng biển, cảng sông...
- Quy định chưa đủ cụ thể đối với tổ chức, cá nhân thực hiện phối trộn, pha loãng hóa chất (theo quy định là hoạt động sản xuất hóa chất) chỉ để sử dụng, phục vụ cho dây chuyền hoạt động của nội bộ công ty, không tạo ra thương phẩm để lưu thông trên thị trường.
- Hoạt động xuất nhập khẩu hóa chất chưa được quản lý chặt chẽ về mặt an toàn, hạn chế rủi ro trong giai đoạn lưu kho tại kho cảng, đặc biệt là các kho ngoại quan.
- Quy định tại Luật Hóa chất hiện nay đang tập trung nhiều vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp khi kinh doanh một loại hóa chất có thể phải thực hiện khai báo khi nhập khẩu; phải có giấy phép hoặc giấy chứng nhận để được thực hiện kinh doanh; phải lập phiếu kiểm soát mua, bán hóa chất độc với từng lần mua hoặc bán. Trong khi đó, các quy định đối với hoạt động sử dụng hóa chất chưa đảm bảo được hiệu lực quản lý, các quy định về vận chuyển, thải bỏ hóa chất còn chung chung dẫn đến chưa đồng bộ quản lý trong toàn bộ chu trình vòng đời của hóa chất.
- Vận chuyển hóa chất chưa có quy định cụ thể trong Luật, việc phân công quản lý hoạt động vận chuyển hóa chất cho các Bộ, ngành khác nhau gây khó khăn cho việc tuân thủ quy định của các doanh nghiệp cũng như sự thống nhất trong quản lý nhà nước.
d) Quản lý sử dụng hóa chất
- Nhiều hóa chất nguy hiểm trong công nghiệp nhưng được sử dụng sai mục đích (hóa chất công nghiệp nhưng sử dụng trong chế biến thực phẩm; các loại dung môi trong ngành sơn, in ấn bị lợi dụng pha vào xăng, dầu; tiền chất công nghiệp có nguy cơ sử dụng trong pha chế chất ma túy trái quy định…) gây ra nhiều khó khăn cho cơ quan quản lý và doanh nghiệp.
- Các quy định về hoạt động sử dụng hóa chất hiện nay chưa tưng xứng với mức độ rủi ro khi so sánh với các hoạt động sản xuất, kinh doanh hóa chất. Các doanh nghiệp sử dụng hóa chất hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau, có những đơn vị sử dụng hóa chất với lượng lớn, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, thực tế đã có nhiều sự cố hóa chất xảy ra tại các cơ sở sử dụng hóa chất. Hiện nay, các tổ chức, cá nhân sử dụng hoá chất ít bị ràng buộc, điều chỉnh bởi quy định pháp luật về hoá chất, nên mức độ quan tâm và hiểu biết quy định về quản lý hóa chất chưa cao, chưa đáp ứng được mục tiêu quản lý hoá chất.
đ) Quản lý hóa chất trong sản phẩm
Thực tế, hiện nay có nhiều sản phẩm như sơn, mực in và keo dán… do trong thành phần có chứa hóa chất nguy hiểm nên có cảnh báo nguy hiểm về nguy cơ cháy nổ, ảnh hưởng sức khỏe người tiếp xúc (cháy nổ, chất gây kích ứng…). Những đối tượng sản phẩm chứa hóa chất như trên chưa được điều chỉnh trong Luật Hóa chất và cũng chưa được điều chỉnh trong các văn bản chuyên ngành khác.
Đây là vấn đề quan trọng, là xu hướng quản lý hoá chất của thế giới, do vậy cần xây dựng cơ chế quản lý hóa chất trong sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm tiêu dùng có thể ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, gây gánh nặng cho công tác xử lý chất thải có chứa hóa chất độc hại có thể ảnh hưởng lâu dài đến môi trường.
e) Về quy phạm kỹ thuật, an toàn hóa chất
- Các yêu cầu đối với nhà xưởng, kho chứa, quản lý hóa chất nguy hiểm còn chung chung, không theo kịp xu thế phát triển thực tế ngành công nghiệp hóa chất, đồng thời chưa đưa ra được tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các vấn đề kỹ thuật cụ thể như hệ thống thiết bị, chiếu sáng, thông gió… Điều này gây khó khăn trong công tác hướng dẫn, thẩm định của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động hóa chất, cũng như gây khó khăn cho việc thực hiện của doanh nghiệp.
- Theo quy định hiện hành, việc xây dựng Biện pháp phòng ngừa ứng phó sự cố hoá chất và huấn luyện an toàn hóa chất do doanh nghiệp tự thực hiện, cơ quan quản lý chỉ hậu kiểm nên nhiều đơn vị xem nhẹ, không thực hiện hoặc thực hiện đối phó, qua loa, chưa đảm bảo công tác phòng ngừa và ứng phó sự cố hóa chất.
g) Về thông tin hóa chất
- Theo quy định hiện hành chỉ hóa chất thuộc Danh mục hóa chất phải khai báo mới phải thực hiện khai báo khi nhập khẩu, dẫn đến khả năng nhiều hóa chất nguy hiểm, độc hại được nhập khẩu vào Việt Nam mà cơ quan quản lý không có thông tin, không giám sát được, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro.
Cùng với sự phát triển đa dạng các hoạt động công nghiệp, nhiều loại hóa chất mới lần đầu được nhập khẩu vào Việt Nam dẫn đến Danh mục hóa chất phải khai báo không thể điều chỉnh hoặc thay đổi kịp thời, dẫn tới khó khăn trong việc xác định các loại hóa chất mới để áp dụng quy trình quản lý.
Do vậy quy định này trong Luật Hóa chất chưa được thực thi hiệu quả trong thực tế.
- Báo cáo hoạt động hóa chất hằng năm hiện nay quy định cho phép doanh nghiệp thực hiện báo cáo thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia. Cách thức thực hiện này tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng cũng làm hạn chế khâu giám sát, xác minh thông tin của cơ quan quản lý.
- Các quy định về bảo mật thông tin còn chung chung, chưa cụ thể nên khó khăn trong việc xây dựng quy trình hướng dẫn thực hiện các thủ tục hành chính hoặc báo cáo định kỳ hàng năm.
- Chưa có quy định cụ thể làm cơ sở tổng hợp, thống nhất dữ liệu về các hoạt động hóa chất một cách toàn diện trong cách các ngành.
h) Trách nhiệm quản lý
Hoạt động hóa chất được diễn ra trong nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau có những hóa chất được sử dụng trong các hoạt động thuộc trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, việc phân công trách nhiệm quản lý hóa chất giữa các cơ quan, đơn vị theo mục đích, lĩnh vực sử dụng không phù hợp với tính lưỡng dụng của hóa chất. Nội dung quy định về trách nhiệm quản lý hóa chất giữa các cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng, chồng chéo gây khó khăn trong việc xác định được hóa chất, doanh nghiệp thuộc cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý (Nông nghiệp, Công Thương, Y tế).
i) Các danh mục quản lý hóa chất
- Hiện nay các giai đoạn trong vòng đời sản phẩm hóa chất đã có các quy định quản lý, tuy nhiên các hóa chất bị quản lý bằng các danh mục dựa trên mức độ nguy hại của hóa chất. Việc quản lý hóa chất dựa trên tiêu chí về mức độ nguy hại dẫn tới các danh mục hóa chất bị quản lý bao gồm nhiều chất, hỗn hợp có mức độ nguy hại tương đồng. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều loại hóa chất trong danh mục này được nhập khẩu, sản xuất, lưu kho, sử dụng ở Việt Nam với số lượng nhỏ nên xác suất rủi ro thấp.
- Việc quản lý hóa chất theo danh mục dựa trên mức độ nguy hại của hóa chất bộc lộ những hạn chế, các danh mục hóa chất vừa thừa vừa thiếu, nhiều hóa chất nguy hiểm chưa có trong danh mục nào, trong khi nhiều hóa chất trong danh mục rất ít có mặt ở Việt Nam. Thông tin trong các danh mục hóa chất chưa đầy đủ, thống nhất, việc tra cứu, rà soát hóa chất trong các danh mục gặp nhiều khó khăn.
Việc thực hiện tiền kiểm với đối tượng doanh nghiệp, hóa chất lớn dẫn đến khối lượng thủ tục hành chính tại một số địa phương gây áp lực cho việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước, gây khó khăn trong việc kiểm soát hoạt động thực tiễn của các doanh nghiệp sau cấp phép.
Các danh mục hóa chất chỉ dựa trên mức độ nguy hại của hóa chất và không dựa trên thực tế hoạt động hóa chất sẽ làm tiêu tốn nguồn lực của cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp dẫn tới không tập trung được vào các loại hóa chất có nguy cơ cao. Việc nguồn nhân lực hạn chế dễ dẫn tới không kiểm soát chặt chẽ các loại hóa chất thuộc danh mục, gây ra tâm lý coi thường quy định của các doanh nghiệp, giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
- Mức độ kiểm soát đối với các hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh và hóa chất sản xuất, kinh doanh có điều kiện với mức độ nguy hại khác nhau chưa có sự khác biệt rõ rệt.
2. Khó khăn, vướng mắc trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hóa chất
- Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hóa chất mới chỉ thực hiện tốt tới các doanh nghiệp lớn, việc cập nhật các quy định pháp luật đặc biệt các quy định mới về quản lý hóa chất còn hạn chế.
- Chất lượng hoạt động huấn luyện an toàn hóa chất chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều doanh nghiệp còn thực hiện một cách hình thức, nội dung huấn luyện sơ sài và chưa đi vào thực chất công việc của người lao động, huấn luyện thực hành về an toàn, ứng phó sự cố hóa chất cho người lao động làm việc trực tiếp về hóa chất còn hạn chế, chất lượng đội ngũ giảng viên còn thấp.
3. Khó khăn, vướng mắc trong áp dụng thi hành Luật Hóa chất
- Một số quy định về quản lý hóa chất chưa hài hòa với quy định quản lý của các nước trên thế giới nên chưa thuận lợi cho các công ty đa quốc gia hoạt động ở Việt Nam cũng như các doanh nghiệp trong nước khi tham gia hoạt động thương mại với các nước khác.
Thực tế cho thấy, một số doanh nghiệp nước ngoài có hệ thống quản lý hóa chất hiện đại, tiêu chuẩn về an toàn cao tuy nhiên vẫn gặp những khó khăn nhất định khi tuân thủ các quy định của Việt Nam.
- Việc tiến hành cải cách thủ tục hành chính mạnh mẽ, đẩy mạnh dịch vụ công trực tuyến không đồng bộ với đẩy mạnh hiệu lực hiệu quả công tác giám sát sau cấp phép gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước, nhiều doanh nghiệp có thể lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để thực hiện các hành vi vi phạm.
- Hoạt động hậu kiểm còn hạn chế về số lượng, tần suất, thời gian, chất lượng các cuộc thanh, kiểm tra, dẫn tới chưa đáp ứng nhu cầu nâng cao hiệu quả quản lý trong điều kiện giảm thiểu, đơn giản hóa các thủ tục tiền kiểm.
Các thủ tục hành chính hiện nay chủ yếu được thực hiện qua môi trường mạng, tuy nhiên lực lượng chức năng chưa thể tiến hành xử phạt các hành vi vi phạm của doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục hành chính. Việc này có thể dẫn đến nhiều doanh nghiệp thực hiện “lấy lệ”, cung cấp các thông tin không chính xác, dẫn tới tình trạng thiếu tôn trọng và không thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về quản lý hóa chất.
4. Khó khăn, vướng mắc trong công tác hợp tác quốc tế, thực thi các công ước quốc tế về quản lý hóa chất
Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện nay vẫn tồn tại một số khó khăn trong hoạt động hợp tác quốc tế khi thực hiện Luật Hóa chất như sau:
- Một số công ước quốc tế về hóa chất được ký kết và gia nhập sau khi Luật Hóa chất có hiệu lực (các công ước Basel, Stockholm, Rotterdam, Minamata và SAICM…) nên không được quy định cụ thể trong Luật Hóa chất, điều này dẫn đến sự phân mảnh và lỗ hổng trong việc nội luật hóa các công ước này.
- Hoạt động hợp tác quốc tế mới chỉ thiên về đảm bảo nghĩa vụ đối với các công ước quốc tế về quản lý hóa chất, chưa có điều kiện chủ động, tích cực thực hiện quảng bá, kêu gọi đầu tư từ các nước trên thế giới tham gia phát triển ngành công nghiệp hóa chất tại Việt Nam một cách bền vững do thiếu các quy định cụ thể trong Luật Hóa chất.
Từ những nguyên nhân trên, việc bổ sung các quy định cụ thể hơn về hoạt động hợp tác quốc tế trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hóa chất, bổ sung là hết sức cần thiết nhằm tận dụng lợi thế của các hoạt động đối ngoại mang lại.
5. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
- Luật Hóa chất được ban hành năm 2007 và bắt đầu có hiệu lực từ tháng 7 năm 2008. Sau khoảng thời gian hiệu lực dài (14 năm), một số quy định của Luật Hóa chất và các văn bản hướng dẫn đã dần bộc lộ những hạn chế, bất cập và không còn phát huy hiệu lực quản lý tối đa trong thực tế.
- Nguồn nhân lực quản lý hóa chất còn thấp cả về chất lượng và số lượng. Thực tế cho thấy, kể từ khi Luật Hóa chất ra đời với sự nỗ lực của các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương trong việc nâng cao chất lượng, sự quan tâm của các chính quyền địa phương, nhân lực quản lý hóa chất đã được nâng cao đáng kể, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, cùng với nỗ lực tinh giản hóa bộ máy trong thời gian qua của Bộ Công Thương và các địa phương, biên chế thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hóa chất ít có sự gia tăng về số lượng. Điều này đòi hỏi cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời tích cực áp dụng công nghệ thông tin, các giải pháp hiện đại vào hoạt động quản lý.
- Nguồn nhân lực đội ngũ chuyên gia tư vấn xây dựng dự án, công nghệ, huấn luyện an toàn, xây dựng kế hoạch, biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất, triển khai quản lý hóa chất tại doanh nghiệp còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng.
- Hệ thống hạ tầng thông tin, thiết bị phần cứng, đặc biệt phần mềm hỗ trợ triển khai các thủ tục hành chính, tổng hợp, phân tích, chia sẻ dữ liệu còn hạn chế.
- Ý thức quản lý hóa chất từ doanh nghiệp đến một số địa phương còn chưa cao.
Trong thời gian qua, ý thức về vai trò của quản lý nhà nước đối với hóa chất trong đảm bảo an ninh, trật tư, an toàn đối với con người, môi trường và tài sản ngày càng được nâng cao, đặc biệt ở các địa phương nhiều doanh nghiệp hoạt động hóa chất. Tuy nhiên ý thức về trách nhiệm đối với cộng đồng trong việc thực thi các quy định về quản lý hóa chất còn chưa cao, đơn cử tại thời điểm hiện tại mới có 1.628 doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ báo cáo tình hình hoạt động hóa chất năm 2021 trên tổng số hơn 7.000 doanh nghiệp được hệ thống cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia ghi nhận có hoạt động hóa chất.
V. ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT HÓA CHẤT
1. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật Hóa chất
a) Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quản lý hóa chất
Nền kinh tế và công nghiệp Việt Nam tăng trưởng nhanh chóng dẫn tới các hóa chất được sản xuất, nhập khẩu và sử dụng tăng cả về số lượng, chủng loại và đa dạng các hoạt động. Doanh nghiệp hoạt động hóa chất tăng nhanh cả về số lượng, loại hình hoạt động và số lượng hóa chất nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh, sử dụng tạo ra áp lực cần thay đổi các quy định pháp luật để phù hợp với hoạt động thực tiễn.
Nhiều chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đã có sự thay đổi lớn so với thời điểm ban hành Luật Hóa chất, cụ thể như: chủ trương cải cách, hiện đại hóa thủ tục hành chính; xu hướng quản lý chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm; các quy định về hoạt động đầu tư; chủ trương đẩy mạnh chính phủ điện tử hướng tới xây dưng chính phủ số, nền kinh tế số phù hợp với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0…
Giao thương về hóa chất của nước ta với các nước ngày càng tăng theo chủ trương hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Xu hướng quản lý hóa chất của các nước trên thế giới cũng có sự thay đổi mạnh mẽ theo hướng quản lý dựa trên kết quả đánh giá rủi ro, nỗ lực quốc tế trong kiểm soát hoạt động hóa chất có nguy cơ gây mất an ninh, an toàn và tiềm ẩn nguy cơ rủi ro với con người và môi trường. Để thể hiện vai trò là thành viên tích cực trong thực thi các công ước quốc tế về hóa chất mà Việt Nam là thành viên đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong giao thương quốc tế, hệ thống pháp luật về quản lý hóa chất cũng cần thay đổi để hài hòa với các nước trên thế giới.
Trên cơ sở Luật Hóa chất năm 2007 và hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật, công tác quản lý hóa chất đã từng bước đi vào cuộc sống. Bộ máy các cơ quan quản lý hóa chất từ Trung ương đến địa phương được hình thành, được phân cấp, phân quyền rõ ràng, hợp lý. Các tổ chức, cá nhân hoạt động hóa chất đã có ý thức tuân thủ các quy định của Luật Hóa chất từ khâu đầu tư, sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu, vận chuyển, cất giữ, bảo quản, sử dụng và thải bỏ hóa chất. Việc chấp hành các quy định của Luật Hóa chất đã góp phần đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, sau 14 năm thi hành, Luật Hóa chất đã dần bộc lộ một số hạn chế, bất cập khi đất nước phát triển trong giai đoạn mới. Một số quy định của Luật không còn phù hợp với tình hình thực tế hoặc chưa đủ cụ thể dẫn tới khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi.
Nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong hoạt động hóa chất, đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế và hội nhập kinh tế quốc tế, việc nghiên cứu, rà soát để sửa đổi, bổ sung thay thế Luật Hóa chất là thực sự cần thiết.
b) Xây dựng cơ sở pháp luật đẩy mạnh phát triển công nghiệp hóa chất
Một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội được đặt ra trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII là phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng như công nghiệp năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu.
Để hiện thực hóa chủ trương nêu trên, cần sớm hoàn thiện cơ sở pháp luật, cơ chế chính sách thúc đẩy ngành công nghiệp hóa chất phát triển.
2. Định hướng sửa đổi, bổ sung Luật Hóa chất
2.1. Mục tiêu và quan điểm
a) Mục tiêu
- Xây dựng cơ sở pháp lý để đẩy mạnh phát triển công nghiệp hóa chất phù hợp với chủ trương của Đảng về phát triển các “ngành công nghiệp nền tảng”, “phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”, “quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Từ đó, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng với ngành công nghiệp hóa chất và công tác quản lý hóa chất.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với sự phát triển của ngành công nghiệp hóa chất, quản lý hóa chất, giảm thiểu rủi ro của các hoạt động hóa chất tới sức khỏe người dân, môi trường và tài sản xã hội.
- Xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để quản lý họat động hóa chất cơ bản ổn định trong ít nhất 10 năm tiếp theo.
- Hài hòa hệ thống pháp luật về quản lý hóa chất với quy định của các nước trên thế giới, góp phần tạo môi trường thông thoáng, thu hút đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia, các tập đoàn hóa chất lớn với công nghệ, hệ thống quản lý hiện đại, sản phẩm có giá trị cao trên thế giới mở rộng hoạt động tại Việt Nam đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam trong giao thương quốc tế.
b) Quan điểm
- Kế thừa và phát triển các quy định của Luật Hóa chất hiện hành, tránh gây khó khăn trong quá trình thực thi cho các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong hoạt động hóa chất.
- Hài hòa với hệ thống quản lý hóa chất của các nước phát triển nhưng phải đảm bảo tính khả thi trong điều kiện về trình độ phát triển, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực của Việt Nam.
- Thiết kế lại hệ thống thủ tục hành chính theo hướng đồng bộ, đơn giản hóa nhưng vẫn đảm bảo hiệu lực quản lý bằng các quy định tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành chính đi kèm xây dựng cơ chế giám sát thực thi sau cấp phép và tiến hành hậu kiểm hiệu quả.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm và đơn giản hoá điều kiện đầu tư kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia; thực hiện Chính phủ điện tử, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hóa chất. Một số định hướng cải cách hành chính trong thời gian tới:
+ Cải cách hành chính nhưng đồng thời đảm bảo được hiệu lực quản lý nhà nước, không chạy theo số lượng. Thực hiện cắt giảm, đơn giản thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh không cần thiết hoặc khi có biện pháp quản lý hiệu quả thay thế.
+ Thông thoáng ở khâu tiền kiểm nhưng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm mục đích nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, phát hiện và xử lý vi phạm về hoạt động hóa chất, phát hiện những lỗ hổng trong công tác quản lý nhà nước về hóa chất.
- Áp dụng tối đa công nghệ thông tin, bắt kịp xu hướng chuyển đổi số, ứng dụng tối đa khoa học công nghệ, lợi thế của môi trường mạng trong hoạt động quản lý để tránh phát sinh khối lượng công việc quá lớn cho cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong điều kiện nguồn nhân lực hạn chế, từ đó tập trung nâng cao chất lượng quản lý đi vào chiều sâu.
Việc áp dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý, hiện đại hóa hệ thống hành chính được coi là giải pháp then chốt để nâng cao hiệu lực, hiệu quản lý nhà nước trong lĩnh vực hóa chất.
- Định hướng quản lý hóa chất dựa trên đánh giá rủi ro để lựa chọn hóa chất cần quản lý chặt chẽ nhằm tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực của cơ quan quản lý nhà nước, của xã hội trong giảm thiểu rủi ro, nguy hiểm của hóa chất.
- Áp dụng các quy định quản lý có mức độ chặt chẽ phù hợp với các loại hóa chất có mức độ rủi ro khác nhau một cách đồng bộ trong toàn bộ vòng đời từ khâu xuất, nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, sử dụng và thải bỏ.
- Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở địa phương trong việc quản lý hóa chất, nâng cao sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý các ngành, lĩnh vực khác nhau từ trung ương đến địa phương.
2.2. Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung cụ thể
2.2.1. Chính sách 1: Quy định cụ thể, bổ sung các định nghĩa trong Luật Hóa chất
a) Mục tiêu chính sách
Quy định cụ thể các định nghĩa về hóa chất, sản phẩm hóa chất, các hoạt động hóa chất và phạm vi điều chỉnh cụ thể với các thủ tục quản lý.
Luật Hóa chất hiện hành định nghĩa “hóa chất là đơn chất, hợp chất, hỗn hợp chất được con người khai thác hoặc tạo ra từ nguồn nguyên liệu tự nhiên, nguyên liệu nhân tạo”. Theo định nghĩa này, phạm vi điều chỉnh các quy định về quản lý hóa chất rất rộng và chưa phù hợp với điều kiện thực tế. Thực tế cho thấy nhiều loại sản phẩm, hàng hóa có mức độ nguy hại, độc tính rất thấp về mặt hóa học hoặc đã được điều chỉnh bởi các văn bản quản lý chuyên ngành khác nhưng theo định nghĩa về “hóa chất” trong Luật Hóa chất vẫn được xác định là hóa chất và phải thực hiện các quy định về quản lý hóa chất. Tình trạng này vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thực hiện các thủ tục đề nghị cấp phép xuất nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh, vừa gây chồng chéo, tốn nguồn lực của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện quy định quản lý.
Để giải quyết vướng mắc nêu trên, Bộ Công Thương đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2020/NĐ-CP trong đó quy định các sản phẩm, hàng hóa không thuộc đối tượng hóa chất được điều chỉnh của Nghị định số 113/2017/NĐ-CP như sơn, mực in, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật.... Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, các sản phẩm chứa hóa chất sẽ ngày càng gia tăng cả về số lượng và chủng loại, do vậy Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hóa chất cần quy định cụ thể hơn các định nghĩa về hóa chất, sản phẩm hóa chất, các hoạt động hóa chất và phạm vi điều chỉnh cụ thể với từng thủ tục quản lý, từ đó thu hẹp phạm vi điều chỉnh của Luật, giảm bớt thủ tục hành chính cho doanh nghiệp đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý của cơ quan quản lý nhà nước.
b) Nội dung và giải pháp thực hiện chính sách
- Bổ sung giải thích từ ngữ để phân định hóa chất với sản phẩm chứa hóa chất, hóa chất trong sản phẩm.
- Bổ sung định nghĩa cụ thể đối với từng hoạt động hóa chất.
- Quy định rõ khái niệm các sản phẩm phụ, sản phẩm trung gian của quá trình sản xuất hóa chất với các chất thải.
2.2.2. Chính sách 2: Phát triển bền vững ngành công nghiệp hóa chất thành ngành công nghiệp nền tảng, hiện đại
a) Mục tiêu chính sách
Để giải quyết các vấn đề bất cập về phát triển công nghiệp hóa chất đã nêu đồng thời xây dựng cơ chế chính sách đảm bảo cho ngành công nghiệp hóa chất phát triển bền vững, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hóa chất cần điều chỉnh các quy định để đảm bảo mục tiêu:
- Tạo cơ chế, chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển công nghiệp hóa chất thành ngành công nghiệp nền tảng, hiện đại.
- Phát triển ngành công nghiệp hóa chất theo đúng định hướng, đảm bảo phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, an toàn và thân thiện với môi trường.
- Đảm bảo an toàn cho con người, tài sản, hệ sinh thái và môi trường, hướng đến lồng ghép các tiêu chí hóa học xanh và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
b) Nội dung của chính sách
- Quản lý toàn diện hoạt động đầu tư hóa chất trong quá trình chấp thuận chủ trương đầu tư, triển khai thiết kế, thi công.
- Xây dựng các quy định nhằm thúc đẩy mạng lưới tư vấn trong hoạt động đầu tư công nghiệp hóa chất, hỗ trợ phát triển cả về số lượng và chất lượng.
c. Giải pháp thực hiện chính sách đã được lựa chọn và lý do lựa chọn
- Bổ sung các quy định về chiến lược phát triển ngành hóa chất: Yêu cầu đối với nội dung của chiến lược; Trách nhiệm xây dựng, phê duyệt chiến lược; Trách nhiệm thực hiện chiến lược.
- Nghiên cứu, làm rõ phạm vi “dự án hóa chất” đảm bảo phù hợp với các quy định pháp luật về đầu tư, xây dựng.
- Xây dựng các yêu cầu, tiêu chí cụ thể đối với dự án hóa chất (công nghệ, địa điểm, các giải pháp an toàn và bảo vệ môi trường), khuyến khích các dự án đầu tư trong các khu công nghiệp tập trung, áp dụng các tiêu chí hóa học xanh, ví dụ dự án hóa chất phải phù hợp với chiến lược phát triển ngành; nằm trong khu, cụm công nghiệp tập trung; đáp ứng các yêu cầu về công nghệ, an toàn hóa chất và bảo vệ môi trường, sử dụng tài nguyên...
- Xây dựng quy định thúc đẩy hình thành mạng lưới tư vấn thiết kế có chứng chỉ hành nghề trong hoạt động đầu tư công nghiệp hoá chất, cụ thể:
+ Bổ sung quy định về điều kiện đối với tổ chức, cá nhân hoạt động tư vấn dự án hóa chất; quy định về việc cấp chứng chỉ hoạt động cho tổ chức, cá nhân hoạt động tư vấn trong lĩnh vực hóa chất;
+ Xây dựng chính sách phát triển mạng lưới tư vấn thiết kế, hỗ trợ cơ quan quản lý trong việc thẩm tra, thẩm định thiết kế xây dựng các dự án đầu tư;
- Sửa đổi quy định về thời điểm thẩm định, phê duyệt Kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất phù hợp với tiến độ và tình hình triển khai Dự án.
2.2.3. Chính sách 3: Quản lý hóa chất đồng bộ trong toàn bộ vòng đời
a) Mục tiêu chính sách
- Tăng cường hiệu lực quản lý, đảm bảo các hóa chất tùy theo mức độ nguy hại sẽ bị giám sát với mức độ chặt chẽ khác nhau trong toàn bộ quá trình từ sản xuất, nhập khẩu đến khi thải bỏ.
- Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc thực hiện các thủ tục hành chính để thúc đẩy phát triển các hoạt động hóa chất theo đúng quy định pháp luật, đảm bảo an toàn.
b) Nội dung của chính sách
- Rà soát, xây dựng quy định nhằm đảm bảo hiệu lực quản lý xuyên suốt vòng đời của hóa chất, đồng thời kết hợp cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính.
- Nghiên cứu, xây dựng các quy định riêng phù hợp với đối tượng đặc thù của các hoạt động phối trộn, pha loãng hóa chất, tách biệt với hoạt động sử dụng hóa chất.
- Xây dựng đồng bộ hệ thống quản lý các loại hóa chất với các mức độ chặt chẽ khác nhau tùy thuộc vào tính chất nguy hiểm, kết quả đánh giá rủi ro và yêu cầu đảm bảo an toàn, trật tự xã hội.
Hệ thống các thủ tục hành chính, quy trình giám sát, quy định về thanh, kiểm tra đối với tất cả các hoạt động từ xuất nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh, sử dụng, thải bỏ cần được thống nhất tương ứng với mức độ chặt chẽ giảm dần từ hóa chất cấm, hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh, hóa chất sản xuất, kinh doanh có điều kiện, hóa chất nguy hiểm và các hóa chất thông thường khác trong các ngành, lĩnh vực khác nhau. Tùy tính chất nguy hiểm, kết quả đánh giá rủi ro và yêu cầu đảm bảo an toàn, trật tự xã hội, các loại hóa chất sẽ được xem xét và đưa vào các danh mục hóa chất và chịu sự quản lý tương ứng.
- Xây dựng tiêu chí cụ thể, rõ ràng nhằm xác định các hóa chất cần phải quản lý trong toàn bộ vòng đời. Do nguồn lực quản lý có hạn nên cần phải xem xét phương án giảm số lượng hóa chất bị quản lý chặt chẽ về khối lượng và tăng cường công tác kiểm soát với các loại hóa chất này.
- Danh mục hóa chất cấm gồm danh sách các hóa chất đặc biệt nguy hiểm đã bị cấm sử dụng trong các hoạt động dân sự theo các công ước hoặc cam kết quốc tế của Việt Nam cần tiếp tục duy trì, tăng cường khâu quản lý, giám sát.
- Đối với các danh mục hóa chất hạn chế, hóa chất có điều kiện cần phân định rõ tiêu chí quy định hóa chất theo các danh mục phụ thuộc vào:
+ Tính chất nguy hiểm của hóa chất: bao gồm các loại hóa chất bị hạn chế hoặc kiểm soát sản xuất, xuất nhập khẩu, kinh doanh, sử dụng theo các công ước quốc tế như OPCW, Rosterdam, Stockholm, tiền chất công nghiệp, tiền chất thuốc nổ, vật liệu nổ công nghiệp và một số ít hóa chất đặc biệt nghiêm trọng.
+ Kết quả đánh giá rủi ro hóa chất: bao gồm số lượng hạn chế các loại hóa chất có mức độ rủi ro cao theo kết quả đánh giá của các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, địa phương.
Việc sử dụng phương pháp đánh giá rủi ro hóa chất để lựa chọn các hóa chất đưa vào Danh mục quản lý sẽ giúp tối ưu hóa nguồn lực, tập trung vào các hóa chất có mức độ rủi ro cao, tránh giàn trải quản lý theo mức độ nguy hiểm của hóa chất. Việc giàn trải quản lý không chỉ tiêu tốn nguồn lực mà còn gây khó khăn trong thực tế triển khai hoạt động giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, dẫn tới giảm hiệu lực quản lý đồng thời gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình thực thi quy định.
- Xây dựng quy trình ban hành, cập nhật danh mục hóa chất bị quản lý theo hướng linh hoạt, kịp thời thay đổi phù hợp với tình hình thực tế, nhu cầu quản lý và có xem xét đến đặc điểm hoạt động hóa chất của các địa phương.
Trong thời gian gần đây, việc lạm dụng, sử dụng hóa chất sai mục đích tiềm ẩn những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn, trật tự xã hội gây bức xúc trong dư luận ví dụ như việc sử dụng sai mục đích hóa chất N2O (còn gọi là khí cười). Hiện tượng này cho thấy cần thiết phải xây dựng các quy định cho phép nhanh chóng đưa các hóa chất này vào các danh mục có mức độ giám sát chặt chẽ hơn một cách linh hoạt.
c. Giải pháp thực hiện chính sách đã được lựa chọn và lý do lựa chọn
- Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về đánh giá rủi ro hóa chất cho các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng theo lộ trình.
- Về các danh mục hóa chất: Rà soát, rút gọn các danh mục hóa chất hiện hành theo hướng kết hợp giữa mức độ nguy hại của hóa chất và đánh giá rủi ro, xây dựng các danh mục quản lý dựa trên các tiêu chí đã quy định trọng Luật, có tính đến tính chất nguy hiểm, tổng lượng phát thải hoặc lượng hóa chất sản xuất, nhập khẩu, sử dụng và các yêu cầu quản lý đặc biệt để đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
Trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã nghiên cứu phương pháp đánh giá rủi ro đối với hóa chất của một số nước trên thế giới, dựa trên mức độ nguy hại và mức phơi nhiễm (khối lượng sản xuất, nhập khẩu, sử dụng, lượng phát thải ra môi trường của hóa chất) để xếp hóa chất vào các danh mục hoặc các nhóm đối tượng quản lý khác nhau, qua đó nhận thấy phương án này phù hợp và có thể áp dụng tại Việt Nam. Mặt khác, thực tiễn quản lý cho thấy nếu không quy định danh mục hóa chất cụ thể mà phân nhóm đối tượng quản lý theo kết quả phân loại hóa chất sẽ có nguy cơ tạo ra các lỗ hổng về quản lý do ý thức, sự tự giác và năng lực quản lý hóa chất tại các cơ sở hóa chất còn nhiều hạn chế.
- Đẩy mạnh việc cung cấp thông tin, đồng bộ toàn bộ thông tin về thực hiện các thủ tục hành chính về hóa chất từ trung ương đến địa phương trên Cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia; phát triển các chức năng giám sát tự động, đánh giá rủi ro, từ đó khuyến cáo việc điều chỉnh các danh mục hóa chất bị quản lý một cách định lượng, khoa học.
- Xác định rõ tiêu chí và cách thức xác định các hóa chất có yêu cầu quản lý đặc biệt để đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện quản lý nhà nước về hóa chất từ trung ương đến địa phương cũng như năng lực của các cán bộ quản lý hóa chất tại doanh nghiệp.
- Phân công chặt chẽ trách nhiệm quản lý nhà nước về hóa chất cho các bộ, ngành phù hợp với các quy định hiện hành và điều kiện thực tế hiện nay theo hướng đảm bảo rõ ràng, thống nhất, không chồng chéo và thuận lợi trong phối hợp.
Do các loại hóa chất thường có nhiều mục đích sử dụng khác nhau trong các ngành, lĩnh vực, vì vậy Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hóa chất cần có các quy định cụ thể, rõ ràng phạm vi quản lý của các cơ quan nhà nước, phân định rõ phạm vi quản lý của các ngành, lĩnh vực đảm bảo tất cả các hoạt động liên quan đến hóa chất nguy hiểm đều bị quản lý, đồng thời đảm bảo mỗi hoạt động hóa chất chỉ chịu sự quản lý của một cơ quan quản lý ngành.
- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước, tăng cường vai trò của các địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước về hóa chất.
2.2.4. Chính sách 4: Quản lý hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm
a) Mục tiêu chính sách
- Theo kịp xu thế của các nước trên thế giới về việc quản lý hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm tiêu dùng có nguy cơ phơi nhiễm hóa chất nguy hiểm đối với người sử dụng nhằm tăng cường bảo vệ sức khỏe cho người sử dụng và môi trường.
- Ngăn chặn việc nhập khẩu vào Việt Nam các sản phẩm hàng hóa kém phẩm chất, có hàm lượng hóa chất nguy hiểm cao đã bị hạn chế sử dụng ở các quốc gia khác trên thế giới.
- Giảm nguy cơ phát thải ra môi trường các chất thải là sản phẩm sau sử dụng có chứa hóa chất nguy hại với hàm lượng lớn.
b) Nội dung của chính sách
- Quy định về quản lý hóa chất độc hại trong sản phẩm: giới hạn hàm lượng hóa chất độc hại trong sản phẩm, hóa chất không được sử dụng trong sản phẩm, đánh giá rủi ro đối với sản phẩm chứa hóa chất.
- Quy định doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin nguy hại về hóa chất của sản phẩm cho người sử dụng.
c. Giải pháp thực hiện chính sách đã được lựa chọn và lý do lựa chọn
- Đẩy mạnh công tác xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hàm lượng các loại hóa chất nguy hại trong sản phẩm tiêu dùng và công nghiệp.
- Xây dựng chính sách phát triển hệ thống tổ chức đánh giá sự phù hợp, thực hiện việc thử nghiệm, giám định chất lượng, chứng nhận hợp quy đối với ;
- Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật đánh giá rủi ro đối với sản phẩm.
- Quy định trách nhiệm cung cấp thông tin cho người sử dụng đối với các tổ chức, cá nhân nhập khẩu, sản xuất sản phẩm chứa hóa chất.
2.2.5. Chính sách 5: Nâng cao hiệu quả đảm bảo an toàn hóa chất
a) Mục tiêu chính sách
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, ý thức của doanh nghiệp, kỹ năng của người lao động trong việc đảm bảo an toàn hóa chất.
- Nâng cao chất lượng hạ tầng kỹ thuật đảm bảo an toàn, trang thiết bị phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất từ các cơ sở hóa chất đến các cấp chính quyền địa phương và trung ương.
b) Nội dung của chính sách
- Xây dựng quy định để từng bước hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong lĩnh vực hóa chất.
- Xây dựng quy định cụ thể về cơ chế kiểm tra, giám sát, sửa đổi các quy định hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả việc xây dựng Biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố hoá chất và huấn luyện an toàn hóa chất.
- Sửa đổi các quy định về Kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc thực hiện; Tăng cường công tác phối hợp của các cơ quan nhà nước, các ngành, các cấp trong việc thống nhất quản lý, giám sát việc thực hiện Kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất của doanh nghiệp.
- Xây dựng chính sách nhằm nâng cao chất lượng các tổ chức tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp trong đảm bảo an toàn, xây dựng kế hoạch, biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa, huấn luyện an toàn hóa chất.
- Nâng cao hoạt động phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất của các địa phương.
c. Giải pháp thực hiện chính sách đã được lựa chọn và lý do lựa chọn
Từ khi Luật Hóa chất có hiệu lực, bên cạnh các văn bản hướng dẫn thi hành Luật yêu cầu các cơ sở hóa chất nguy hiểm phải đảm bảo các điều kiện về an toàn hóa chất, tổ chức huấn luyện an toàn hóa chất cho người lao động, xây dựng Kế hoạch, Biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn và phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất như: Chỉ thị số 03/CT-TTg, Quyết định số 26/2016/QĐ-TTg, Quyết định số 04/2020/QĐ-TTg.
Việc thực hiện các chính sách này giúp hoạt động phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất được xây dựng thành hệ thống bao gồm Kế hoạch, Biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất của doanh nghiệp cho đến Kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất cấp tỉnh. Các quy định về an toàn hóa chất đang phát huy hiệu quả, góp phần giảm thiểu các nguy cơ rủi ro xảy ra sự cố, dự báo các tình huống có thể xảy ra sự cố để từ đó xây dựng phương án chủ động về trang thiết bị, nhân lực, phương án phối hợp ứng phó các cấp từ cơ quan chức năng đến các cơ sở.
Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động hóa chất gần đây cùng với thực trạng một bộ phận doanh nghiệp còn xem nhẹ, không thực hiện nghiêm túc các quy định về đảm bảo an toàn hóa chất, đặt ra yêu cầu cần có các quy định để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, ý thức của doanh nghiệp, kỹ năng của người lao động, thực trạng hạ tầng kỹ thuật đảm bảo an toàn từ cơ sở hóa chất đến các cấp chính quyền địa phương và trung ương, cụ thể:
- Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc ban hành các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực hóa chất.
- Tiếp tục xã hội hóa hoạt động huấn luyện an toàn hóa chất đồng thời quy định các điều kiện cụ thể đối với người huấn luyện và cơ chế giám sát của cơ quan quản lý nhà nước.
- Điều chỉnh quy định về thẩm định Kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất của các cơ sở để đảm bảo trước khi dự án hóa chất được phê duyệt, triển khai đã có giải pháp khả thi để giảm thiểu nguy cơ phát sinh sự cố và biện pháp ứng phó hữu hiệu. Bên cạnh đó cần có quy định để giám sát các dự án thực hiện các giải pháp về an toàn hóa chất trong thiết kế, xây dựng, đầu tư trang thiết bị phục vụ phòng ngừa, ứng phó đầy đủ trước khi chính thức hoạt động.
- Quy định trách nhiệm cập nhật nội dung của Kế hoạch, Biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất của từng cơ sở hóa chất lên Cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia để thuận lợi cho việc chia sẻ thông tin, tăng cường hoạt động giám sát và giúp các lực lượng chuyên nghiệp nhanh chóng tiếp cận các thông tin cần thiết khi ứng phó sự cố.
- Luật hóa và thống nhất các quy định về xây dựng Kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố cấp tỉnh và Kế hoạch phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất độc cấp tỉnh.
- Xây dựng kế hoạch tổng thể của cả nước trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất, đảm bảo an toàn hóa chất.
2.2.6. Chính sách 6: Quy định về thông tin hóa chất
a) Mục tiêu chính sách
- Cung cấp đầy đủ thông tin về an toàn hóa chất trong toàn bộ chuỗi cung ứng và đến người sử dụng cuối cùng và cộng đồng.
- Tổng hợp đầy đủ thông tin, dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước về hóa chất, lựa chọn các hóa chất cần quản lý và định hướng phát triển ngành công nghiệp hóa chất của các cơ quan quản lý ở trung ương và địa phương.
b) Nội dung của chính sách
- Quy định yêu cầu tất cả hóa chất khi nhập khẩu vào Việt Nam đều phải khai báo, đối với một số hóa chất cần kiểm soát đặc biệt sẽ có quy định riêng.
- Quy định rõ trách nhiệm cập nhập và chịu trách nhiệm về độ chính xác của các dữ liệu được đưa lên Cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia.
- Quy định rõ trách nhiệm về xây dựng, quản lý, vận hành, nâng cấp hệ thống cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia.
- Quy định cụ thể các quy định về bảo mật thông tin.
c. Giải pháp thực hiện chính sách đã được lựa chọn và lý do lựa chọn
- Sửa đổi quy định về khai báo hóa chất nhập khẩu theo hướng tất cả hóa chất khi nhập khẩu vào Việt Nam đều phải khai báo, xây dựng quy định khai báo riêng đối với một số hóa chất cần kiểm soát đặc biệt.
- Triển khai đồng bộ hoàn toàn hệ thống báo cáo của các doanh nghiệp, Sở Công Thương trên môi trường mạng qua Cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia.
- Quy định thống nhất việc báo cáo, tổng hợp dữ liệu về hoạt động hóa chất đối với các bộ, ngành.
- Đồng bộ, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống Một cửa quốc gia và Cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia.
- Phát triển, nâng cấp hệ thống Cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia đảm bảo an toàn, bảo mật, đáp ứng nhu cầu phục vụ hoạt động cung cấp, chia sẻ thông tin, đồng thời phân tích dữ liệu phục vụ công tác quản lý nhà nước về hóa chất ở các cấp.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu hóa chất quốc gia, nâng cao khả năng khai thác thông tin của các cán bộ phụ trách của các cơ quan quản lý nhà nước về hóa chất. Đào tạo đội ngũ quản lý hóa chất ở trung ương, địa phương sử dụng thuần thục hệ thống và hướng dẫn các tổ chức, cá nhân sử dụng.
- Xây dựng cụ thể các quy định về bảo mật thông tin.
Nguồn: BCT