Trao đổi về có hành vi vi phạm tội giả mạo theo Bộ luật Hình sự hay không đối với tình huống thực tiễn của doanh nghiệp

28/10/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Để giúp doanh nghiệp hiểu và áp dụng đúng pháp luật, Công ty Cổ phần phát triển Thủy Long đề nghị Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp, Bộ Tư pháp tổ chức nghiên cứu và có ý kiến pháp lý nội dung như sau: Trong quá trình điều hành sản xuất, kinh doanh, Công ty thường xuyên tổ chức các cuộc họp, Đại hội cổ đông, tuy nhiên, trong quá trình phát hành văn bản, cán bộ hành chính công ty vẫn có những thay đổi, xử lý kỹ thuật, thay trang trước khi phát hành dẫn đến có ý kiến phản ánh về tài liệu chính thống của Công ty, cụ thể là trường hợp Biên bản họp cổ đông số 13/2014/BB-HCĐ ngày 09/11/2014 của Công ty Cổ phần phát triển Thủy Long. Việc thay trang (nếu có) cũng không phải là việc làm có ý thay nội dung và chỉ xử lý kỹ thuật và thường xuyên thực hiện trong soạn thảo và in ấn văn bản của doanh nghiệp. Bởi lẽ, nhân viên hành chính doanh nghiệp trước khi phát hành phải kiểm tra lại và thay các trang văn bản lỗi nếu có. Vậy việc thay trang (nếu có) có hoàn toàn có đồng nghĩa với “làm giả” theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 hay không khi ý kiến giám định chuyên môn của cơ quan có thẩm quyền (Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh đã có Kết luận giám định số 12/KL–PC54 ngày 09/06/2016) cũng chỉ nêu nội dung kết luận giám định: biên bản có 04 trang, trang 1,2,3 phông chữ khác trang 4, các vết dập ghim không trùng nhau, kết luận biên bản bị thay trang không kết luận hồ sơ giả mạo (Biên bản cuộc họp trên có 4 trang và tại trang thứ 4 vẫn có đủ nội dung kết luận cần thiết và chữ ký của các cổ đông, các trang 1,2 và 3 không có chữ ký). Việc này Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình cũng đã có Công văn số 1184 CV- ĐKDN ngày 20/06/2016 gửi Cục Quản lý doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) để xác định có đăng ký doanh nghiệp hay không trong trường hợp trên khi cơ quan thẩm định đã kết luận như trên là có “thay trang” và ngày 22/06/2016, Cục Quản lý doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cũng đã có Công văn số 141/ĐKKD-GĐ có ý kiến như sau: “Trường hợp cơ quan công an không kết luận nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo thì chưa đủ căn cứ thu hồi Giấy đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 63 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP”. Với những thông tin và dữ liệu như trên, cùng với việc cơ quan chuyên môn đã có ý kiến là biên bản bị thay trang có được suy ra kết luận là hồ sơ giả mạo hay không? Việc này rất cần cách hiểu pháp lý thống nhất giúp cho doanh nghiệp tránh được các mâu thuẫn, tranh chấp pháp lý ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Công ty Cổ phần phát triển Thủy Long xin chân thành cảm ơn sự phối hợp của Quý đơn vị.

Ngày 30/9/2022, Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp, Bộ Tư pháp có Công văn số 21/PCDN trả lời ý kiến pháp lý như sau:
Được sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ (Văn bản số 324/VPCP-TCCB ngày 25/01/1999 của Văn phòng Chính phủ) và sự thỏa thuận của Bộ trưởng- Trưởng Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), ngày 22/7/1999, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 212/QĐ-TCCB về việc thành lập Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp. Theo Quyết định thành lập và Điều lệ thì một trong những chức năng của Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp là hỗ trợ hội viên trong việc giải quyết những vướng mắc, khó khăn về mặt pháp lý phát sinh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhằm áp dụng đúng pháp luật, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp nhận được Công văn số 25/2022 VB/TL ngày 25/9/2022 của Công ty Cổ phần phát triển Thủy Long về việc đề nghị hỗ trợ cung cấp ý kiến tư vấn pháp luật nội dung vụ việc như sau:
1. Trong quá trình điều hành sản xuất, kinh doanh, Công ty thường xuyên tổ chức các cuộc họp, Đại hội cổ đông, tuy nhiên, trong quá trình phát hành văn bản, cán bộ hành chính công ty vẫn có những thay đổi, xử lý kỹ thuật, thay trang trước khi phát hành dẫn đến có ý kiến phản ánh về tài liệu chính thống của Công ty, cụ thể là trường hợp Biên bản họp cổ đông số 13/2014/BB-HCĐ ngày 09/11/2014 của Công ty Cổ phần phát triển Thủy Long.
Việc thay trang (nếu có) cũng không phải là việc làm cố ý thay nội dung và chỉ xử lý kỹ thuật và thường xuyên thực hiện trong soạn thảo và in ấn văn bản của doanh nghiệp. Bởi lẽ, nhân viên hành chính doanh nghiệp trước khi phát hành phải kiểm tra lại và thay các trang văn bản lỗi nếu có. Vậy việc thay trang (nếu có) có hoàn toàn có đồng nghĩa với “làm giả” theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 hay không khi ý kiến giám định chuyên môn của cơ quan có thẩm quyền (Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh đã có Kết luận giám định số 12/KL–PC54 ngày 09/06/2016) cũng chỉ nêu nội dung kết luận giám định: biên bản có 04 trang, trang 1,2,3 phông chữ khác trang 4, các vết dập ghim không trùng nhau, kết luận biên bản bị thay trang không kết luận hồ sơ giả mạo (Biên bản cuộc họp trên có 4 trang và tại trang thứ 4 vẫn có đủ nội dung kết luận cần thiết và chữ ký của các cổ đông, các trang 1,2 và 3 không có chữ ký).
Việc này Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình cũng đã có Công văn số 1184 CV- ĐKDN ngày 20/06/2016 gửi Cục Quản lý doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) để xác định có đăng ký doanh nghiệp hay không trong trường hợp trên khi cơ quan thẩm định đã kết luận như trên là có “thay trang” và ngày 22/06/2016, Cục Quản lý doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cũng đã có Công văn số 141/ĐKKD-GĐ có ý kiến như sau: “Trường hợp cơ quan công an không kết luận nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo thì chưa đủ căn cứ thu hồi Giấy đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 63 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP”.
Với những thông tin và dữ liệu như trên, cùng với việc cơ quan chuyên môn đã có ý kiến là biên bản bị thay trang có được suy ra kết luận là hồ sơ giả mạo hay không? Việc này rất cần cách hiểu pháp lý thống nhất giúp cho doanh nghiệp tránh được các tranh chấp pháp lý ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Sau khi nghiên cứu nội dung nêu trên và căn cứ vào các quy định của pháp luật có liên quan, Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp cho rằng:  
Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 341) quy định tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức như sau: Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật. Việc làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức là hành vi làm ra con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức giống với con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thật của cơ quan, tổ chức đó hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân.
Điều luật được ghép bởi hai tội danh gần nhau gồm: Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Các yếu tố cấu thành tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức cơ bản cũng không quá khác nhau.
Khách thể: Hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính cơ quan Nhà nước về con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác. Bảo vệ sự an toàn của con dấu và các tài liệu, giấy tờ trên cũng chính là bảo đảm sự hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính của Nhà nước về con dấu và các loại tài liệu, giấy tờ này; đối tương tác động của tội phạm này là con dấu giả, tài liệu giả, giấy tờ giả.
Mặt khách quan: Hai tội danh được thực hiện bởi hai hành vi khác nhau: hành vi làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ của cơ quan, tổ chức và hành vi sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ giả nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân; đối với hành vi làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ của cơ quan, tổ chức cũng tương tự như đối với tội sản xuất hàng giả quy định tại Điều 192 Bộ luật hình sự chỉ khác nhau ở chỗ “hàng” được làm ra không phải là “hàng hoá” mà là con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ. Vì vậy, khi xác định con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ của cơ quan, tổ chức có bị làm giả hay không phải căn cứ vào con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ của cơ quan, tổ chức là con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ có thật, nếu cơ quan tổ chức không có con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ đó thì cũng không thể coi hành vi làm con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ là hành vi làm giả được, vì không có thật thì cũng không có giả.
Khi xác định hành vi làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ của cơ quan, tổ chức cũng cần chú ý: nếu người phạm tội chỉ làm giả con dấu thì chỉ định tội là “làm giả con dấu của cơ quan, tổ chức”, nếu người phạm tội chỉ làm giả tài liệu hoặc giấy tờ của cơ quan, tổ chức thì chỉ định tội là “làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” mà không định tội danh đầy đủ như điều luật quy định.
Ví dụ thực tế, tài liệu ở đây được xem xét có làm giả hay không như trình bày của Quý Công ty là Biên bản họp cổ đông số 13/2014/BB-HCĐ ngày 09/11/2014 của Công ty Cổ phần phát triển Thủy Long. Biên bản này như Công ty trình bày đã được giám định bởi Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình và đã có Kết luận giám định số 12/KL–PC54 ngày 09/06/2016, trong đó biên bản có 04 trang, trang 1,2,3 phông chữ khác trang 4, các vết dập ghim không trùng nhau, kết luận biên bản bị thay trang không kết luận hồ sơ giả mạo (Biên bản cuộc họp trên có 4 trang và tại trang thứ 4 vẫn có đủ nội dung kết luận chính và chữ ký của các cổ đông, các trang 1,2 và 3 không có chữ ký). Cơ quan giám định đã kết luận Biên bản cuộc họp bị “thay trang” 1,2,3 do có dấu dập ghi không khớp giữa các trang, không kết luận hồ sơ giả mạo.
Thực tế như trình bày của Quý Công ty, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình đã có Công văn số 1184 CV- ĐKDN ngày 20/06/2016 gửi Cục Quản lý doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) để xác định có đăng ký doanh nghiệp hay không khi cơ quan thẩm định đã kết luận như trên là có “thay trang”. Ngày 22/06/2016, Cục Quản lý doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã có Công văn số 141/ĐKKD-GĐ có ý kiến như sau: “Trường hợp cơ quan công an không kết luận nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo thì chưa đủ căn cứ thu hồi Giấy đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 63 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP”.
Theo đó, việc thay trang (nếu có) cũng không phải là việc làm trái pháp luật mà chỉ là việc doanh nghiệp thực hiện trong soạn thảo và in ấn, phát hành văn bản của doanh nghiệp, trên thực tế vẫn xảy ra trường hợp nhân viên hành chính doanh nghiệp phải thay các trang văn bản lỗi.
Do đó việc Biên bản bị “thay trang” (nếu có) hoàn toàn không được suy đoán hay được hiểu đồng nghĩa với “làm giả” theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015. Trường hợp kết luận là hồ sơ giả mạo phải do cơ quan thuộc Bộ Công an hoặc Bộ Quốc phòng quản lý thực hiện giám định chữ ký, giấy tờ giả mạo theo quy định của Luật Giám định tư pháp và các cơ quan đó mới đủ thẩm quyền kết luận là hồ sơ có giả mạo hay không.
Trên đây là quan điểm của Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp về vấn đề này, xin gửi quý cơ quan để tham khảo và xem xét, quyết định./.
 

Xem thêm »