Định hướng xây dựng, phát triển chính phủ số và hiện trạng ngành Tư pháp

24/06/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Trước bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã hình thành xu thế phát triển mới trong nhiều lĩnh vực, trong đó có xu hướng chuyển đổi số trong xây dựng Chính phủ số từ nền tảng Chính phủ điện tử. Xây dựng Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới.

  1. CĂN CỨ VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ SỐ Ở VIỆT NAM
    1. Căn cứ
Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030;
Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030.
  1. Một số kết quả xây dựng chính phủ số ở Việt Nam
Thực hiện các chủ trương, định hướng về chuyển đổi số quốc gia, trong thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã nỗ lực để triển khai chuyển đổi số và đạt được nhiều kết quả quan trọng:
- Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước kết nối 04 cấp hành chính tiếp tục được phát triển, tạo hạ tầng truyền dẫn ổn định, an toàn kết nối các hệ thống thông tin phục vụ Chính phủ số. Đến nay, Mạng đã kết nối đến 100% huyện; 96,73% xã trên toàn quốc.
- Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) tiếp tục được phát triển và khai thác hiệu quả để phục vụ nhu cầu kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước ngày càng cao. Trung bình hằng ngày có hơn 1,5 triệu giao dịch thực hiện thông qua NDXP. 
- Các cơ sở dữ liệu (CSDL) tạo nền tảng cho Chính phủ số được đẩy mạnh triển khai, là điều kiện tiên quyết để triển khai Chính phủ số:
+ CSDL quốc gia về Dân cư đã được Bộ Công an vận hành chính thức từ ngày 01/7/2021.
+ CSDL quốc gia về Bảo hiểm quản lý thông tin của 27 triệu hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế, bao gồm thông tin của 98 triệu người dân. 
+ CSDL hộ tịch điện tử toàn quốc có khoảng 23 triệu dữ liệu đăng ký khai sinh, trong đó có trên 7 triệu trẻ em được cấp Số định danh cá nhân theo quy định; trên 4,5 triệu dữ liệu đăng ký kết hôn; trên 3,2 triệu dữ liệu đăng ký khai tử.
+ CSDL quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp chứa thông tin đăng ký doanh nghiệp theo thời gian thực của hơn 01 triệu doanh nghiệp và đơn vị trực thuộc; tỷ lệ số hóa hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đạt 100%.
- Cổng Dịch vụ công quốc gia đã tích hợp với 3.552 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 của các bộ, ngành, địa phương, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp truy cập thuận tiện (một cửa) đến dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước các cấp.
- Các ứng dụng trong nội bộ cơ quan nhà nước tiếp tục được phát triển góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí hoạt động, đổi mới phương thức làm việc:
+ Trục liên thông văn bản quốc gia thực hiện gửi, nhận trên 1,6 triệu văn bản điện tử;
+ Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ;
+ Hệ thống thông tin báo cáo Quốc gia, Trung tâm thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kết nối, liên thông các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu có chức năng báo cáo. 
  1. Một số khó khăn, vướng mắc
- Về chia sẻ, dùng chung dữ liệu: Một số cơ sở dữ liệu (xây dựng trước khi có nền tảng tích hợp quốc gia - NDXP) chủ yếu chỉ sử dụng nội bộ, chưa được chia sẻ, khai thác rộng rãi cho các Bộ, ngành khác.
- Việc thực hiện số hóa dữ liệu của các cơ quan nhà nước còn chậm, ảnh hưởng đến khả năng phân tích dữ liệu phục vụ công tác quản trị, điều hành, ra quyết định.
- Việc người dân, doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ công trực tuyến còn ít, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên mọi phương tiện thông tin đại chúng, có các cơ chế khuyến khích người dân, doanh nghiệp sử dụng, khai thác hiệu quả dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 trên các Cổng Dịch vụ công.
- Hệ thống cơ quan chuyên trách về công nghệ thông tin của các Bộ, ngành chưa đồng bộ, thiếu nhân lực chuyên môn cao và đọi ngũ chuyên gia về chuyển đổi số.
  1. Định hướng xây dựng, phát triển chính phủ số
  1. Định hướng
- Cơ quan nhà nước cắt giảm, tái cấu trúc, đơn giản hóa, chuẩn hóa, thống nhất các thủ tục hành chính phục vụ xã hội trên phạm vi toàn quốc.
- Cơ quan nhà nước cung cấp dịch vụ mới trên nguyên tắc đảm bảo chất lượng dịch vụ, giảm chi phí, tăng năng suất lao động xã hội một cách chủ động, kịp thời đáp ứng nhu cầu của xã hội.
- Cơ quan nhà nước thiết kế mô hình tổ chức, cách thức vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, tạo ra môi trường làm việc và công cụ làm việc để cán bộ, công chức, viên chức có thể thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình, kết nối và hợp tác với nhau dễ dàng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn.
- Người dân, doanh nghiệp có thể sử dụng dịch vụ số theo nhu cầu cá thể hóa, theo suốt cuộc đời, khi cần, theo cách thuận tiện, trực tuyến hoặc trực tiếp, dễ dàng, đơn giản, nhanh chóng, không giấy tờ, không cần sự hiện diện nếu pháp luật không yêu cầu.
b) Mục tiêu
- 100% cơ quan nhà nước cung cấp dịch vụ 24/7, sẵn sàng phục vụ trực tuyến bất cứ khi nào người dân và doanh nghiệp cần. 100% công chức được gắn định danh số trong xử lý công việc.
- 100% hoạt động chỉ đạo, điều hành và quản trị nội bộ của cơ quan nhà nước được thực hiện trên nền tảng quản trị tổng thể, thống nhât.
- 100% văn bản trao đổi giữa các cơ quan nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử, được ký số bởi chữ ký số chuyên dùng, trừ văn bản mật theo quy định của pháp luật.
- 90% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 80% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 60% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước).
- 100% công tác báo cáo được thực hiện trên hệ thống thông tin báo cáo quốc gia.
- 100% hồ sơ được tạo, lưu giữ, chia sẻ dữ liệu điện tử theo quy định.
- 100% cơ quan nhà nước cấp bộ, tỉnh có nền tảng phân tích, xử lý dữ liệu tổng hợp tập trung, có ứng dụng trí tuệ nhân tạo để tối ưu hóa hoạt động.
- Tối thiểu 50% hoạt động giám sát, kiểm tra của cơ quan quản lý được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý.
- Mỗi người dân có danh tính số kèm theo QR code, tiến tới đều có điện thoại thông minh. Mỗi hộ gia đình có địa chỉ số, có khả năng truy cập Internet cáp quang băng rộng.
- Mỗi người dân đều được sống trong môi trường bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội và có quyền riêng tư cá nhân trong môi trường số được bảo vệ theo quy định của pháp luật.
c) Một số nhiệm vụ cơ bản
- Phát triển và vận hành hạ tầng mạng chuyên dùng ổn định, an toàn, thông suốt, kết nối 04 cấp hành chính từ trung ương đến cấp xã trên cơ sở Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước, mạng diện rộng của các bộ, ngành, địa phương, mạng Internet băng rộng để phục vụ Chính phủ số;
- Xây dựng Nền tảng điện toán đám mây Chính phủ (CGC) thống nhất trên cơ sở quy hoạch, kết nối đám mây của các cơ quan nhà nước tại các bộ, ngành, địa phương (AGC) nhằm tạo môi trường để lưu trữ, chia sẻ tài nguyên, phát triển dịch vụ dùng chung cho Chính phủ số trên quy mô toàn quốc được linh hoạt, hiệu quả, nhanh chóng; kết nối, khai thác hiệu quả các hệ thống đám mây của doanh nghiệp (EGC) để cung cấp hạ tầng điện toán đám mây cho Chính phủ số.
- Phát triển Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) để kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương trên quy mô toàn quốc thông qua việc kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương (LGSP).
- Phát triển Nền tảng trao đổi định danh và xác thực điện tử quốc gia (NIXA) hướng tới xây dựng mô hình liên hiệp định danh, tận dụng tối đa các hình thức xác thực điện tử hiện có để tiết kiệm thời gian, chi phí triển khai.
- Phát triển dữ liệu số quốc gia tạo nền tảng cho triển khai Chính phủ số, bảo đảm cung cấp dữ liệu số cho các dịch vụ công trực tuyến, chia sẻ dữ liệu thông suốt giữa các cơ quan nhà nước, cung cấp các bộ dữ liệu mở có chất lượng và giá trị khai thác cao, mở dữ liệu theo quy định của pháp luật để phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
- Các cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ triển khai các dịch vụ cơ bản, thiết yếu liên quan đến người dân, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước cần được phát triển trước. Xác định dữ liệu về dân cư, đất đai, doanh nghiệp là dữ liệu trụ cột, cốt lõi cần phải hoàn thành, đưa vào khai thác sớm để dẫn dắt, liên kết, thống nhất toàn bộ dữ liệu trong cơ quan nhà nước về các ngành, lĩnh vực.
- Xây dựng dữ liệu có phạm vi toàn quốc phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, ưu tiên dữ liệu trong các lĩnh vực quan trọng: hạ tầng không gian địa lý; bảo hiểm, y tế, an sinh xã hội; tài chính; căn cước; hộ tịch; giáo dục; đào tạo; cán bộ công chức, viên chức; nông nghiệp; lao động, việc làm; phương tiện giao thông, xây dựng, xuất nhập khẩu.
- Xây dựng cổng dữ liệu quốc gia là đầu mối cung cấp dữ liệu mở của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng nhằm minh bạch, tăng cường chia sẻ dữ liệu, thúc đẩy sáng tạo, phát triển kinh tế số, xã hội số, bảo đảm an toàn thông tin của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
- Triển khai các kênh tương tác trực tuyến để người dân tham gia, giám sát hoạt động xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật, ra quyết định của cơ quan nhà nước.
2. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, CHUYỂN ĐỔI SỐ CỦA NGÀNH TƯ PHÁP
2.1. Thực trạng hạ tầng công nghệ thông tin
  • Hiện nay Bộ Tư pháp đã trang bị 100% máy tính cho cán bộ công chức, viên chức để đáp ứng nhu cầu của công việc; tỷ lệ các cơ quan trực thuộc có mạng LAN, kết nối Internet tốc độ cao, kết nối WAN là 100%.
- Hạ tầng kỹ thuật của Bộ Tư pháp được triển khai tập trung, thống nhất tại Trung tâm dữ liệu điện tử của Bộ, từng bước đáp ứng yêu cầu triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin trên phạm vi toàn quốc. Nhằm phục vụ nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin của Bộ Tư pháp, Trung tâm dữ liệu điện tử được xây dựng từ năm 2005 và hàng năm được nâng cấp, bổ sung các trang thiết bị để triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin nội bộ của Bộ Tư pháp nói riêng cũng như trong toàn Ngành Tư pháp nói chung.
  • Hiện nay, Bộ Tư pháp đã sử dụng Mạng truyền số liệu chuyên dùng của cơ quan Đảng, Nhà nước phục vụ kết nối chia sẽ dữ liệu trên Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) và Trục liên thông văn bản quốc gia vào mạng TSLCD gồm các hệ thống thông tin như: Phần mềm đăng ký khai sinh điện tử, Hệ thống hộ tịch; Hệ thống quản lý văn bản và điều hành; Hệ thống lý lịch tư pháp; Dịch vụ công; hệ thống hội nghị giao ban trực tuyến của Chính phủ.
2.2. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin
a). Nền tảng kết nối, chia sẻ dùng chung của Bộ
Bộ Tư pháp tiếp tục duy trì kết nối nền tảng kết nối, chia sẻ dùng chung của Bộ (LGSP) với 05 hệ thống: Phần mềm quản lý lý lịch tư pháp; Hệ thống đăng ký trực tuyến về biện pháp bảo đảm; Cổng dịch vụ công Bộ Tư pháp; Hệ thống một cửa điện tử Bộ Tư pháp; Cổng dịch vụ công Quốc gia.
Để bảo đảm dữ liệu được cập nhật một lần, Bộ tiếp tục hỗ trợ các địa phương kết nối, chuyển đổi dữ liệu hồ sơ đăng ký hộ tịch của công dân đã được cập nhật trên Hệ thống thông tin một cửa điện tử dùng chung của địa phương sang Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch của Bộ Tư pháp qua Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) để xử lý mà không phải cập nhật lại các thông tin đã được cập nhật trên Hệ thống phần mềm một cửa điện tử.
b). Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch:
Đến nay, Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch dùng chung của Bộ Tư pháp đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với hơn 25 ngàn người dùng đã và đang tham gia sử dụng hơn 10 nghìn UBND cấp xã, hơn 700 Phòng Tư pháp và 63 Sở Tư pháp.
Triển khai liên thông, kết nối dữ liệu với Cơ sở dữ liệu của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam để thực hiện đăng ký khai sinh, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi nhằm liên thông các thủ tục hành chính đăng ký khai sinh, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em.
Phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai kết nối liên thông dữ liệu giữa Hệ thống một cửa điện tử của các địa phương với Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch dùng chung, Hệ thống phần mềm lý lịch tư pháp thông qua Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) theo quy định tại Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 9/4/2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.
Phối hợp với Bộ Công an triển khai chính thức giải pháp kết nối cấp số định danh cá nhân theo quy định cho công dân đăng ký khai sinh với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư qua hệ thống kết nối, liên thông các hệ thống thông tin ở Trung ương và địa phương (NDXP).
c) Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật
Triển khai Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015, Bộ Tư pháp đã xây dựng và đưa Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật vào hoạt động chính thức tại địa chỉ http://vbpl.vn đáp ứng khả năng kết nối, tích hợp dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật của Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, phần mềm hỗ trợ pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật; Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh không phải xây dựng cơ sở dữ liệu mới về văn bản quy phạm pháp luật mà chỉ cần kết nối, tích hợp, trích xuất dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, không bị trùng lặp.
Ngày 28/5/2015, Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2015/NĐ-CP về Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật để bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, trong đó yêu cầu:
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan nhà nước khác ở Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng kế hoạch, lộ trình cập nhật văn bản được ban hành trước ngày Nghị định này có hiệu lực vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, đồng thời phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện cập nhật và hoàn thành việc cập nhật văn bản trước ngày 30/06/2016;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan khác ở Trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoàn thành việc trích xuất từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật về Trang hoặc Mục văn bản quy phạm pháp luật trên Cổng hoặc Trang thông tin điện tử của mình trước ngày 31/12/2016. 
Đến hết năm 2016, toàn bộ Cổng thông tin điện tử của 63/63 tỉnh/thành phố và 25/25 bộ, ngành đã thực hiện xong việc trích xuất Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật.
 Bộ Tư pháp đã đôn đốc các Bộ/Ngành, tỉnh/thành phố trong việc cập nhật, rà soát văn bản trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật theo quy định của Nghị định số 52/2015/NĐ-CP ngày 28/5/2015 của Chính phủ về Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật. Trong năm 2021, đã cập nhật được 4.981 văn bản, nâng tổng số văn bản trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật đến thời điểm hiện tại là 118.425 văn bản quy phạm pháp luật (37.500 văn bản Trung ương) và 1005 văn bản hợp nhất.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật có số lượng truy cập hàng ngày khoảng 30.000 lượt. Hiện nay, Bộ Tư pháp đã thực hiện kết nối, chia sẻ, tích hợp dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP).
d) Phần mềm hỗ trợ Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật
Phần mềm hỗ trợ pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật được Bộ Tư pháp xây dựng và triển khai tại tất cả các đơn vị có liên quan bao gồm 27/27 Bộ, Ngành tham gia với 210 tài khoản.
Phần mềm đã hỗ trợ các đơn vị thực hiện công tác pháp điển theo Quyết định số 1267/QĐ-TTg ngày 29/7/2014 và Quyết định số 891/QĐ-TTg ngày 17/7/2019  của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng Bộ pháp điển.
Đến nay, phần mềm đã hỗ trợ thực hiện pháp điển 220/271 Đề mục (trong đó có 185 đề mục đã được Chính phủ thông qua; 35 đề mục đang trình Chính phủ xem xét thông qua).
c). Các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành
- Hệ thống quản lý văn bản và điều hành;
- Hệ thống phần mềm lý lịch tư pháp;
- Phần mềm quản lý quá trình thụ lý, tổ chức thi hành án và báo cáo thống kê thi hành án dân sự;
- Phần mềm Thống kê ngành Tư pháp;
- Cơ sở dữ liệu người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành 
- Hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý
d) Các hệ thống phục vụ người dân, doanh nghiệp
- Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp
- Cổng Thông tin điện tử về phổ biến giáo dục, pháp luật
- Cổng Dịch vụ công, Hệ thống thông tin một cửa điện tử của Bộ Tư pháp đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ công mức độ 4
- Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản
2.3. Thực trạng nguồn nhân lực
Cục Công nghệ thông tin là đơn vị chuyên trách thuộc Bộ Tư pháp có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý và tổ chức thực hiện hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, viễn thông trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ và cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, các đơn vị trong Bộ, Ngành đã từng bước bố trí được cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin; riêng Tổng cục Thi hành án dân sự đã thành lập đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin (tổng số cán bộ CNTT chuyên trách của các đơn vị thuộc Bộ là 61, trong đó, cán bộ công nghệ thông tin của Cục Công nghệ thông tin là 17 người, có 8 đồng chí trình độ thạc sĩ, 9 đồng chí trình độ đại học, còn lại là cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin của các đơn vị thuộc Bộ.
Hiện nay, nhân lực CNTT tại Bộ Tư pháp và các đơn vị đang trong tình trạng thiếu, đa số nhân sự CNTT trong các đơn vị là cán bộ kiêm nhiệm. Việc tuyển dụng, giữ chân đội ngũ cán bộ chuyên trách về CNTT rất khó khăn. Có đơn vị không có cán bộ chuyên trách có trình độ chuyên môn về CNTT.
2.5. Định hướng phát triển
Để xây dựng thành công chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số, trong giai đoạn 2021-2025, ngành Tư pháp sẽ triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Nâng cấp hạ tầng Trung tâm dữ liệu điện tử của Bộ nhằm tăng cường năng lực triển khai Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số; đầu tư hạ tầng kỹ thuật về an toàn, bảo mật; nâng cao năng lực đảm bảo an toàn, an ninh thông tin, ứng phó sự cố an ninh mạng cho Trung tâm dữ liệu điện tử của Bộ.
Xây dựng, phát triển, mở rộng cơ sở dữ liệu, hệ thống nền tảng dùng chung trong Ngành Tư pháp: Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật; Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính; Hệ thống thông tin về phổ biến giáo dục pháp luật, Cơ sở dữ liệu thi hành án dân sự; Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu Ngành Tư pháp nhằm phục vụ các ứng dụng công nghệ thông tin của Bộ, Ngành; liên kết, đồng bộ dữ liệu với các Cơ sở dữ liệu quốc gia trên cơ sở ứng dụng các công nghệ hiện đại, đảm bảo an toàn, an ninh thông tin;
Đẩy mạnh việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 theo yêu cầu chung của Chính phủ. Hình thành kênh tiếp nhận ý kiến góp ý thông qua mục Phản ánh kiến nghị, tổ chức đối thoại trực tuyến, chuyên mục hỏi đáp trực tuyến về thủ tục hành chính để phục vụ người dân, doanh nghiệp. Hướng dẫn cho người dân khai thác, sử dụng Hệ thống một cửa điện tử, Cổng dịch vụ công trực tuyến.
 
 
 

Xem thêm »