HỖ TRỢ PHÁP LÝ CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG BỐI CẢNH MỚI VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH TƯ PHÁP

26/08/2021
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là là việc bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh thực hiện các hoạt động xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật cơ sở dữ liệu về pháp luật ; xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao hiểu biết, ý thức và thói quen tuân thủ pháp luật, hạn chế rủi ro, vướng mắc pháp lý trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật. Như vậy, đây là một nhiệm vụ quan trọng của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ này lại càng quan trọng hơn khi hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa , nhất là trong bố cảnh dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp . Mặc dù, Nhà nước không phải là chủ thể duy nhất có thể hỗ trợ nói chung và hỗ trợ pháp lý nói riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng Nhà nước luôn phải đóng vai trò chính trong hoạt động này.

  1. Những vấn đề chung về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, thực tiễn của Việt Nam, các nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm
1.1. Đặc điểm của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.    
Hệ thống quy định pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được quy định trong Luật (Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017), Nghị định (Nghị định số 55/2019/NĐ-CP thay thế Nghị định số 66/2008/NĐ-CP), Thông tư (Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT-BTC-BTP) và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Nội dung cơ bản của lĩnh vực pháp luật này bao gồm các nhóm quy định về đối tượng được hỗ trợ; chủ thể thực hiện việc hỗ trợ; nội dung hỗ trợ; hình thức hỗ trợ; trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc bảo đảm thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp...
Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, thực tiễn triển khai hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời gian qua cho thấy, công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là một hoạt động phản ánh chức năng kinh tế của nhà nước. Hỗ trợ nói chung và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói riêng được nhiều nước trên thế giới quan tâm, thực hiện không chỉ như một hoạt động bình thường, nhất thời mà là một công việc mang tính bản chất, thuộc chức năng của Nhà nước, đó là vì: (1) Nhà nước có nhiệm vụ thiết lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho mọi doanh nghiệp thuộc mọi quy mô kinh doanh; (2) để thực hiện được nhiệm vụ này của mình thì Nhà nước nào cũng phải có chính sách ưu tiên nhất định cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nói cách khác, hỗ trợ nói chung và hỗ trợ pháp lý nói riêng là một trong các biện pháp mà Nhà nước cần phải thực hiện để đảm bảo sự bình đẳng trên thực tế giữa các doanh nghiệp có quy mô kinh doanh khác nhau.
Thứ hai, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là một loại dịch vụ công mà nhà nước có trách nhiệm đảm bảo thực hiện. Khái niệm, đặc điểm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau nhưng chúng đều có tính chất chung là nhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung, thiết yếu của xã hội; bảo đảm tính công bằng và tính hiệu quả trong cung cấp dịch vụ. Các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mang đầy đủ đặc điểm của dịch vụ công (xét về mặt chủ thể cung cấp, đối tượng thụ hưởng, quy trình, thủ tục cung cấp dịch vụ, cơ chế kiểm soát, đảm bảo chất lượng dịch vụ công…),  ngoài ra, yếu tố hỗ trợ pháp lý miễn phí cho doanh nghiệp là đặc điểm quan trọng của dịch vụ hỗ trợ này.
Thứ ba, đối tượng thụ hưởng hoạt động hỗ trợ pháp lý là các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu và mô hình tổ chức. Theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 (Điều 2 và Điều 14), Nghị định số 55/2019/NĐ-CP (Điều 2), việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được thực hiện đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp, sáng tạo. Đồng thời với việc ghi nhận nguyên tắc Nhà nước chỉ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nghị định số 55/2019/NĐ-CP cũng có quy định mang tính mở, đó là, tùy thuộc vào nguồn lực, các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp có thể quyết định áp dụng các quy định về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để hỗ trợ pháp lý cho tổ chức, cá nhân kinh doanh không phải là doanh nghiệp nhỏ và vừa (Điều 19). Đây là đặc thù của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở Việt Nam, phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay.
Thứ tư, hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được thực hiện thông qua các hình thức và nội dung do pháp luật quy định phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. Nội dung hỗ trợ pháp lý tập trung vào những vấn đề pháp luật mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Hình thức hỗ trợ pháp lý là những phương thức hoạt động của chủ thể hỗ trợ, qua đó, việc hỗ trợ được thực hiện, mang lại lợi ích cho đối tượng được hỗ trợ. Nội dung và hình thức hỗ trợ được pháp luật quy định rõ ràng, cụ thể. Được hỗ trợ pháp lý là một nhu cầu của doanh nghiệp và việc đáp ứng nhu cầu này là nghĩa vụ của Nhà nước, tuy nhiên, do nhu cầu hỗ trợ thì nhiều, khả năng đáp ứng của Nhà nước lại có hạn nên công tác hỗ trợ (nội dung và hình thức hỗ trợ) luôn được Nhà nước xác định theo từng thời kỳ và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, từng địa bàn.
Thứ năm, hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được thực hiện trên cơ sở phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp. Việc phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là rất cần thiết vì hoạt động của doanh nghiệp là rất đa dạng, liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của nhiều Bộ, ngành, địa phương và chức năng đại diện của nhiều hiệp hội doanh nghiệp. Mỗi cơ quan quản lý nhà nước cũng như mỗi tổ chức đại diện cho doanh nghiệp đều có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn riêng biệt. Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước cũng như chức năng đại diện cho doanh nghiệp là hoàn toàn độc lập với nhau. Do vậy, để đạt được sự thống nhất trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và cùng hướng đến một mục tiêu chung, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức có liên quan cần phải phối hợp với nhau, nhờ đó mà tránh được sự chồng chéo và trùng lắp trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
1.2. Phân biệt hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp với một số hoạt động tương tự.
Hoạt động “hỗ trợ pháp lý” cho doanh nghiệp dễ gây nhầm lẫn với hoạt động “trợ giúp pháp lý”, “tư vấn pháp luật”. Vì vậy, rất cần phân biệt sự khác nhau giữa hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp với trợ giúp pháp lý và tư vấn pháp luật:
Theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì “trợ giúp pháp lý” là hoạt động do Nhà nước cung cấp một cách miễn phí cho những đối tượng yếu thế trong xã hội hoặc có công với cách mạng được xác định cụ thể trong Luật nhằm góp phần bảo đảm công bằng xã hội trong việc tiếp cận công lý. Như vậy, trợ giúp pháp lý là một nội dung của chính sách an sinh xã hội của Nhà nước. Đặc trưng của hoạt động hỗ trợ pháp lý và là cơ sở để phân biệt với hoạt động trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 gồm đối tượng thụ hưởng, phạm vi (nội dung) hỗ trợ và chủ thể thực hiện việc hỗ trợ.
So với hoạt động “tư vấn pháp luật” mà luật sư thực hiện[6] thì hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (cũng tương tự như hoạt động trợ giúp pháp lý) là một dịch vụ công do Nhà nước thực hiện. Đối tượng thụ hưởng dịch vụ hỗ trợ pháp lý và trợ giúp pháp lý không phải trả phí, trong khi đó, hoạt động “tư vấn pháp luật” là dịch vụ tư và về nguyên tắc, là dịch vụ có thu phí. “Tư vấn pháp luật thông qua mạng lưới tư vấn viên pháp luật” là một dịch vụ hoạt động độc lập, tuy nhiên, đây là một hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp do Nhà nước đứng ra thực hiện trên cơ sở nguồn lực và kế hoạch trong một giai đoạn nhất định nhằm hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn viên pháp luật do nhà nước công nhận (Điều 9 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP).
Ngoài ra, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của Việt Nam trong tình hình mới, đã đến lúc Việt Nam cần nghiên cứu, xây dựng chế định “Luật sư công” trong bộ máy nhà nước, theo đó, luật sư công là công chức nhà nước được bổ nhiệm làm luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích của nhà nước trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách trong các tổ chức trợ giúp pháp lý của nhà nước. Luật sư công là vấn đề lớn, đang trong quá trình nghiên cứu, nhất là trong bối cảnh Luật Luật sư và Luật Trợ giúp pháp lý đang tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện trong thời gian tới.
1.3. Sự hình thành và phát triển pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Việt Nam.
- Giai đoạn trước năm 2008[7]. Việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong giai đoạn này chưa được coi là một chính sách, một công việc quan trọng thuộc chức năng kinh tế của Nhà nước. Điều này thể hiện ở chỗ: Một là, chưa có văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành dành cho vấn đề này. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự hỗ trợ nói chung và sự hỗ trợ pháp lý nói riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu tồn tại dưới hình thức các chủ trương, chính sách, nghị quyết mà thôi. Hai là, chưa hình thành một tổ chức (dù là sơ khai) có tính chất nhà nước để thực hiện một cách chuyên nghiệp các nhiệm vụ có liên quan đến công tác hỗ trợ nói chung và hỗ trợ pháp lý nói riêng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ba là, Nhà nước chưa hình thành (xây dựng) bất cứ một nguồn tài chính đáng kể nào cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Hậu quả là, trên thực tế, chính sách này được thực hiện một cách manh mún, tự phát, mạnh ai nấy là, do đó, tính hiệu quả không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng doanh nghiệp. 
- Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2017. Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp lần đầu tiên được ghi nhận trong một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao của Nhà nước là Nghị định của Chính phủ (Nghị định số 66/2008/NĐ-CP). Với sự ra đời của Nghị định này, ở nước ta đã chấm dứt tình trạng thiếu quy định pháp luật về một lĩnh vực hoạt động rất quan trọng và cần thiết của Nhà nước đối với doanh nghiệp là lĩnh vực hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn sau năm 2008 được thực hiện thống nhất, đa dạng trên phạm vi cả nước; bước đầu đã phát huy được vai trò, ý nghĩa nhất định đối với các doanh nghiệp, qua đó, góp phần nâng cao vai trò, uy tín và tầm quan trọng của ngành Tư pháp trong cộng đồng doanh nghiệp.
- Giai đoạn từ năm 2017 đến nay. Lần đầu tiên, chế định hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã được ghi nhận trong Luật với tư cách là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao nhất (chỉ sau Hiến pháp) trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Khoản 3 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 quy định một cách khái quát nội dung hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn này được tập trung vào doanh nghiệp nhỏ và vừa, tuy nhiên, trong Nghị định số 55/2019/NĐ-CP vẫn cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mở rộng phạm vi các đối tượng được hỗ trợ pháp lý khi cần thiết. Cơ chế tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn pháp luật được thiết lập tại các bộ, ngành lần đầu tiên được thí điểm áp dụng để hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (Điều 9 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP). Cơ chế này tạo điều kiện để huy động sự tham gia tích cực hơn nữa của các tư vấn viên pháp luật gồm các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, trung tâm tư vấn pháp luật vào hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.4. Một số hạn chế cơ bản của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời gian qua.
Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (trong đó tập trung vào đối tượng là doanh nghiệp nhỏ và vừa) tại Việt Nam trong hơn 10 năm qua, bên cạnh những thành công và kết quả đáng ghi nhận, giúp cho ngành Tư pháp tạo được “dấu ấn” trong cộng đồng doanh nghiệp[8] thì vẫn còn một số hạn chế cơ bản như sau:
Thứ nhất, sự quan tâm của nhiều bộ, ngành, địa phương cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc đề ra các chủ trương mà chưa có các giải pháp cụ thể. Ví dụ, đến hết năm 2020, nhiều bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vẫn chưa ban hành Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong từng giai đoạn hoặc hàng năm theo yêu cầu của Nghị định số 55/2019/NĐ-CP, do đó, chưa có cơ sở để triển khai các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong ngành, lĩnh vực và địa phương[9]. Công tác phối kết hợp giữa bộ, ngành và giữa bộ, ngành với địa phương, giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp chưa thực sự chặt chẽ, do đó, hiệu quả không cao;
Thứ hai, nhân lực thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp của bộ, ngành và địa phương chưa được chuyên nghiệp hóa, còn mang tính chất kiêm nhiệm, chưa được xác định nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng; cơ sở vật chất và phương tiện thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý liên ngành còn hạn chế và chưa đáp ứng được nhu cầu; chế độ thù lao cho các cán bộ thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý vẫn chưa phù hợp đủ để khuyến khích cũng như tạo điều kiện cho các nhân sự này thực hiện tốt công tác được giao;
Thứ ba, việc cân đối và bố trí kinh phí cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu đặt ra; định mức kinh phí đối với nhiều hoạt động còn thấp so với yêu cầu của thực tiễn, dẫn đến khó khăn trong việc triển khai; nhiều địa phương không bố trí kinh phí riêng cho việc triển khai hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong khi kinh phí từ ngân sách Trung ương dành Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành còn hạn chế[10].
  1. Pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hiện nay trên thế giới tồn tại hai quan điểm khác nhau về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa[11].
Quan điểm thứ nhất (quan điểm của một số quốc gia như Đài Loan, Singapore, Úc…) cho rằng, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực, các quốc gia đa số là thành viên của các tổ chức quốc tế, tham gia ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương, trong đó thể hiện rõ sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thì mọi hoạt động hỗ trợ bao gồm hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa không thuộc trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước. Theo quan điểm này, doanh nghiệp phải tự tìm hiểu, trang bị kiến thức pháp luật hoặc khi có vấn đề pháp lý xảy ra trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình thì phải chủ động tìm tới các văn phòng luật sư, công ty luật, nơi thực hiện các dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp để ký hợp đồng dịch vụ pháp lý mà giải quyết.
Quan điểm thứ hai (quan điểm của một số quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Thái Lan…) lại cho rằng[12], doanh nghiệp phải được coi là đối tượng phục vụ của Nhà nước, vì vậy, song song với những hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, khoa học công nghệ, khởi nghiệp doanh nghiệp… Nhà nước phải có trách nhiệm hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, cũng theo quan điểm này thì Nhà nước không hỗ trợ doanh nghiệp một cách tràn lan, vô nguyên tắc mà phải theo những điều kiện nhất định dưới những hình thức nhất định và với những mức độ nhất định.
Qua nghiên cứu hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại hầu hết các nước thuộc Cộng đồng chung Châu Âu cũng cho thấy, các quốc gia này đều coi việc thông tin và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là trách nhiệm của Nhà nước. Tại Cộng hòa Pháp, năm 1978 đã ban hành Luật số 78-753 quy định cơ quan nhà nước có trách nhiệm trả lời chính xác mọi câu hỏi của cá nhân và doanh nghiệp có liên quan đến các quy định pháp luật.[13] Tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan... bên cạnh việc hỗ trợ trực tiếp về tài chính, kỹ thuật, cơ chế hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đang được vận hành hiệu quả, đặt trọng tâm vào các giải pháp phòng tránh rủi ro pháp lý trong kinh doanh, hỗ trợ cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, qua đó giúp doanh nghiệp tại các quốc gia này tránh những thua thiệt không đáng có, ngày càng khẳng định vị thế không chỉ tại thị trường nội địa mà ngày càng phát triển vững bền trên trường quốc tế.
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của các nước trên thế giới, có thể rút ra một số bài học về công tác này cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay như sau:
Thứ nhất, mục tiêu của việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng cần phải được xác định rõ trong Luật. Xác định mục tiêu thực sự của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp không chỉ có vai trò quyết định đến sự khác biệt trong Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa… của các nước mà còn xác định phạm vi, hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cần phải được pháp luật điều chỉnh. Trong nhiều nghiên cứu về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp hiện nay ở các nước, trong đó có Hàn Quốc[14], vấn đề mục tiêu của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được đặt ra rất rõ ràng, cho từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Thứ hai, việc xác định đối tượng được Nhà nước hỗ trợ nói chung và hỗ trợ pháp lý nói riêng cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng, thận trọng trên cơ sở trình độ phát triển kinh tế - xã hội cùng từng nước mà không thể tùy tiện, duy ý chí. Các quốc gia sử dụng các tiêu chí khác nhau để xác định doanh nghiệp nào được Nhà nước hỗ trợ. Theo quy định của tất cả các nước, chỉ có doanh nghiệp nhỏ và vừa là đối tượng được Nhà nước hỗ trợ. Tuy nhiên, tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các quốc gia khác nhau là khác nhau và vì vậy, số lượng số lượng các doanh nghiệp được Nhà nước hỗ trợ ở các nước là hoàn toàn khác nhau.
Ở Cộng hòa Liên Bang Nga trong Luật Hỗ trợ kinh doanh nhỏ và vừa năm 2007[15], đối tượng được hỗ trợ không chỉ có doanh nghiệp mà còn có cả cá nhân kinh doanh và hợp tác xã, đây là một đặc thù, được quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù của nước Nga. Ở Việt Nam cũng vậy, khi xác định đối tượng được Nhà nước hỗ trợ nói chung và hỗ trợ pháp lý nói riêng, nhà lập pháp cũng có quyết sách riêng. Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, việc Nghị định số 55/2019/NĐ-CP xác định một cách rộng rãi các đối tượng được Nhà nước hỗ trợ pháp lý, bao gồm không chỉ các doanh nghiệp mà còn các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, các cá nhân kinh doanh tuy không phù hợp với quan niệm chung của nhiều nước trên thế giới nhưng lại phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, trên cơ sở kinh nghiệm của các nước trên thế giới, quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, Nghị định số 55/2019/NĐ-CP và xuất phát từ đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, trong thời gian tới chỉ nên tập trung xác định rõ đối tượng được Nhà nước hỗ trợ pháp lý chỉ là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ ba, cần xác định đầy đủ, hợp lý nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Hiệu quả của hoạt động hỗ trợ nói chung và hỗ trợ pháp lý nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của các chủ thể thực thi hoạt động hỗ trợ. Vì vậy, các nước đều quy định rất rõ địa vị pháp lý (quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm) của các chủ thể này. Ví dụ, tại Hàn Quốc, công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được giao cho Bộ Lập pháp Hàn Quốc[16]. Để thực hiện hiệu quả hoạt động này, ngoài 06 thành viên thường trực là công chức của Bộ Lập pháp Hàn Quốc chuyên trách công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thì Bộ đã thành lập mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa với gần 200 luật sư.
Thứ tư, cần quan tâm hơn nữa về mặt kinh phí của Nhà nước dành cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Hoạt động hỗ trợ nói chung và hoạt động hỗ trợ pháp lý nói riêng luôn phải gắn liền với những khoản chi tiêu nhất định mà Nhà nước phải bỏ ra hoặc các chủ thể khác phải bỏ ra. Tuy nhiên, do hỗ trợ là một chức năng, một nhiệm vụ mà Nhà nước phải thực hiện đối với cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa nên Nhà nước luôn phải là người chi trả chính cho các khoản chi tiêu liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ này. Vì vậy, cần phải xác định Nhà nước là người “tài trợ chính” cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bài học này không chỉ được rút ra cho các nước phát triển mà rất có ích cho Việt Nam. Không thể lấy lý do Nhà nước đang còn nghèo, điều kiện tài chính còn yếu mà khước từ vai trò là nhà tài trợ chủ yếu cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong khi các tổ chức hiệp hội của doanh nghiệp nhỏ và vừa đang yếu kém về mọi mặt, đặc biệt là về mặt tài chính thì vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực này lại càng trở nên quan trọng. Có thấm nhuần được bài học kinh nghiệm này thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới đủ thiện chí và lý do để “mở hầu bao” cho dù hiện nay “hầu bao” đó là rất hạn chế.
  1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong bối cảnh mới và vai trò của ngành Tư pháp trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã trải qua hơn 10 năm triển khai chính thức ở Việt Nam và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Chính vì vậy, lần đầu tiên, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã ghi nhận: “hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có bước phát triển mạnh”[17], đồng thời đã xác định trọng tâm và các định hướng của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian tới như sau: (i) hỗ trợ doanh nghiệp các vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp thương mại, giảm thiểu rủi ro trong hội nhập quốc tế[18]; (ii) tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của doanh nghiệp[19]; (iii) có chính sách hỗ trợ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp[20]; (iv) điều chỉnh các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng thống nhất, có trọng tâm, trọng điểm, mang tầm quốc gia và thể hiện tính liên ngành, liên vùng[21]
Những định hướng nêu trên trong chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 toàn cầu đang ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta. Do tính chất, nội dung và phương thức thực hiện hoạt động hỗ trợ nói chung và hỗ trợ pháp lý nói riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất phức tạp, đa dạng nên luôn luôn đòi hỏi sự tham gia, phối hợp hoạt động của nhiều bộ, ngành, địa phương. Trong số các cơ quan, tổ chức đó, Bộ Tư pháp có vai trò đặc biệt quan trọng.
 Đối với Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan thống nhất quản lý về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời gian tới vẫn cần có trách nhiệm chính tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau đây: (i) nghiên cứu, hoàn thiện các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo các phương thức mới, hiện đại, hiệu quả; (ii) tổng hợp, đánh giá, báo cáo tình hình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên phạm vi cả nước; (iii) tổ chức, kiện toàn đầu mối hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp từ Trung ương tới địa phương (cấp tỉnh); (iv) đầu tư cơ sở vật chất phục vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; (v) xây dựng, vận hành hệ thống thông tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tập trung một đầu mối, đáp ứng được nhu cầu thông tin pháp lý đúng, kịp thời của doanh nghiệp; (vi) định kỳ công bố thông tin, thống kê về kết quả hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp...
Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mang tính chuyên ngành cao, do đó, Bộ Tư pháp mặc dù được coi là cơ quan đầu mối có vai trò thống nhất quản lý nhà nước và thực thi một số hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhưng do bị hạn chế về nhiều mặt (năng lực chuyên môn, bộ máy, kinh phí, nhân lực thực hiện…) nên không thể một mình gánh vác được hết trọng trách hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Vì vậy, trong Nghị định số 55/2019/NĐ-CP đã dành nhiều quy định cụ thể để làm rõ mối quan hệ giữa Bộ Tư pháp với các bộ, ngành khác có liên quan đến việc thực thi trách nhiệm chung của Nhà nước về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành và đặc biệt là mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan này với Bộ Tư pháp vẫn còn không ít điều chưa rõ, chưa đầy đủ, chưa hợp lý. Ví dụ: Nghị định số 55/2019/NĐ-CP quy định trách nhiệm của Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn lập dự toán, bố trí, sử dụng, thanh quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy định này không rõ phạm vi, trách nhiệm, thời gian thực hiện, dẫn đến việc chậm ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thay thế Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT-BTC-BTP trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (Thông tư liên tịch trên đã được áp dụng hơn 10 năm nay, đến tháng 5/2021, Bộ Tài chính vẫn chưa ban hành Thông tư mới để thay thế).
Vì vậy, đây sẽ là vấn đề mà sắp tới Nhà nước ta phải quan tâm giải quyết vì trong bất cứ việc gì của Nhà nước, sự thành công của nó phụ thuộc rất nhiều vào năng lực hành động, chất lượng làm việc của cán bộ, công chức có liên quan. Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp không phải là chức năng, nhiệm vụ riêng có của Nhà nước. Hiệp hội, các tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp, các Liên đoàn, Đoàn Luật sư cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng trong lĩnh vực này (ví dụ: tổng đài tư vấn doanh nghiệp miễn phí 19006199 do một số Công ty Luật thực hiện như Công ty Luật Việt Luật…; Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam thường xuyên tổ chức hỗ trợ pháp lý miễn phí cho doanh nghiệp hội viên qua các đối thoại, tọa đàm, lớp bồi dưỡng pháp luật kinh doanh được tổ chức hằng năm…).
  1. Một vài kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao vai trò của ngành Tư pháp trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời gian tới
Thứ nhất, ngành Tư pháp cần tăng cường công tác tuyên tuyền, phổ biến pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đối với cán bộ, công chức và doanh nghiệp.
(a) Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức các cấp, các ngành và doanh nghiệp về tầm quan trọng của pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp. Hiện nay, tình trạng không chỉ doanh nghiệp mà cả cán bộ, công chức không quan tâm, thờ ơ, thậm chí là coi thường các quy định pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp là khá phổ biến. Trong bối cảnh như vậy, việc tuyên tuyền, phổ biến lĩnh vực pháp luật này cho cán bộ, công chức và doanh nghiệp là giải pháp đầu tiên và rất cần thiết phải thực hiện để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Chỉ khi nào các chủ thể nhận thức đúng pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mới hành động đúng theo quy định của pháp luật này.
Đối tượng được tuyên truyền không chỉ là các cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước có liên quan đến hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mà còn cả doanh nghiệp, người quản lý, sử dụng và lao động trong doanh nghiệp.
      (b) Các hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hỗ trợ pháp lý hiện nay đã có nhưng chưa thực sự hiệu quả. Ví dụ: việc xây dựng và vận hành Trang tin về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên Cổng thông tin của Bộ Tư pháp; việc xây dựng và phát hành các bản tin, tài liệu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp… đã và đang được thực hiện nhưng kết quả không cao.
       Vì vậy, để nâng cao chất lượng hiệu qủa của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cần tập trung thực hiện một số công việc sau đây:
Một là, xây dựng và nhân rộng các mô hình điểm, hiệu quả về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp như mô hình “Cà phê doanh nhân”, “Cà phê doanh nghiệp thứ 7[22]... coi đây là phương thưc hữu hiệu nhằm gắn kết và rút ngắn khoảng cách giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp, là diễn đàn không chính thức để giải đáp các thắc mắc pháp lý cho doanh nghiệp và tiếp nhận các kiến nghị của doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật cũng như tổ chức thi hành pháp luật. Ngoài ra, cũng cần nghiên cứu và nhân rộng mô hình “Bác sĩ doanh nghiệp”ở tỉnh Bắc Ninh nhằm giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa chuẩn đoán “bệnh” (vướng mắc pháp lý) để chữa “bệnh” cho doanh nghiệp.
Hai là, triển khai thường xuyên, có hiệu quả, chất lượng các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua các tọa đàm, hội nghị đối thoại trực tiếp với các doanh nghiệp; các hội nghị, bồi dưỡng pháp luật kinh doanh trực tuyến cho doanh nghiệp.
Ba là, quan tâm, đầu tư nhân lực và kinh phí để nâng cấp, đổi mới Trang tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (đặt ở Cổng thông tin của Bộ Tư pháp) thành 01 trang tin điện tử chính thống về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, thu hút sự truy cập của các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp trong phạm vi cả nước về các vấn đề liên quan đến hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Bốn là, đổi mới các hình thức, nội dung trong việc xây dựng và phát sóng định kỳ hàng tuần các chương trình “Kinh doanh và pháp luật” trên Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam; xây dựng các Clip bài giảng điện tử về pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp, các tài liệu hướng dẫn pháp luật đơn giản, cụ thể dễ hiểu để phát rộng rãi trên các môi trường mạng, điện tử hay các trang xã hội để tăng cường lan tỏa các quy định pháp luật tới từng doanh nghiệp có nhu cầu.
Thứ hai, tăng cường phối hợp giữa ngành Tư pháp với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
Việc phối hợp giữa ngành Tư pháp với các cơ quan, tổ chức trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là rất đa dạng, phong phú, nhưng chủ yếu được thực hiện thông qua 03 mối quan hệ cơ bản như sau: (i) Mối quan hệ giữa Bộ Tư pháp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (đầu mối là Sở Tư pháp); (ii) Mối quan hệ giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, ngành ở Trung ương; giữa Sở Tư pháp với các Sở, ngành ở địa phương; (iii)  Mối quan hệ giữa các bộ, ngành ở Trung ương với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, các hiệp hội ở Trung ương; giữa các sở, ngành ở địa phương với các tổ chức đại diện, hiệp hội ở địa phương.
Việc tăng cường phối hợp trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là một trong những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Trên tinh thần như vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả của sự phối hợp trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cần phải thực hiện các giải pháp sau: (i) cần cải tiến hình thức, phương thức phối hợp trong việc cung cấp thông tin pháp lý cho doanh nghiệp; tổ chức các hội nghị đối thoại, tọa đàm, lấy ý kiến doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật; xây dựng tài liệu, giới thiệu văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến doanh nghiệp; giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp, tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp; (ii) cần nghiên cứu xây dựng Quy chế phối hợp chung thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giữa Trung ương với địa phương, giữa các bộ, ngành với nhau và giữa bộ, ngành với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, các hiệp hội trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, Bộ Tư pháp cần quan tâm ưu tiên nguồn lực triển khai Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025; đổi mới xây dựng và thực hiện các hoạt động cụ thể của Chương trình giai đoạn 2021-2025 theo hướng tiếp cận từ mô hình quản lý theo kết quả và hướng tới nâng cao sự hài lòng của doanh nghiệp đối với hoạt động của cơ quan Nhà nước. Ví dụ, các mô hình quản lý theo kết quả đã được áp dụng ở nhiều địa phương và trong xu hướng hiện nay đều gắn với các Chỉ số đo lường chất lượng quản trị địa phương, thích ứng với các địa phương như PCI, PAPI, ICT Index, SIPAS[23]... Những khó khăn và kiến nghị của doanh nghiệp có thể được khắc phục và thực hiện nếu áp dụng mô hình quản lý theo kết quả, xác định các hình thức hỗ trợ với khung đầu ra và kết quả (kèm theo đó là các chỉ tiêu, chỉ số đo lường...) cũng như bố trí nguồn lực tương ứng. Vì vậy, cần xây dựng khung đầu ra và kết quả cho Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành và nâng cao năng lực xây dựng Kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở địa phương cấp tỉnh gắn với xác định và đầu ra và kết quả cụ thể trong từng năm, từng giai đoạn.
Thứ ba, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động, nhất là trong việc thông tin, tuyên truyền về pháp luật hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, không chỉ sẽ góp phần nâng cao năng lực sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp của các cán bộ, công chức cũng như các doanh nghiệp mà còn góp phần nâng cao hiệu quả công tác này trong thực tiễn.
Để tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời đại cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 và bối cảnh của đại dịch bệnh Covid – 19 toàn cầu như hiện nay, cần quan tâm nghiên cứu và thực hiện đồng bộ các giải pháp như sau:
Một là, việc quản lý, sử dụng hạ tầng kỹ thuật các ứng dụng công nghệ thông tin cần được triển khai đến các cơ quan tư pháp (từ tổ chức pháp chế ở các bộ, ngành đến các Sở Tư pháp thành một hệ thống tin xuyên trục) trong toàn quốc và kể cả các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài nhằm truyền tải các thông tin pháp luật một cách rộng rãi đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong và ngoài nước. Theo đó, cần xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu, phần mềm quản lý hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để tổ chức thực hiện, báo cáo thống kê hiệu quả về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong và ngoài nước, từ Trung ương tới địa phương; áp dụng trí tuệ nhân tạo trong việc tư vấn, hỗ trợ các thủ tục pháp lý cho doanh nghiệp.
Hai là, cần quan tâm kiện toàn và nâng cấp “Trang thông tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp” của Bộ Tư pháp thành “Trang thông tin Quốc gia về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp” nhằm phục vụ công tác quản lý, khai thác thông tin, đánh giá, rút kinh nghiệm trong hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; công khai thông tin về kết quả hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, công tác thông tin pháp luật cho doanh nghiệp; giải đáp pháp luật; tiếp nhận, tổng hợp, xử lý các kiến nghị của doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật; tích hợp các nội dung, thông tin về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp của các bộ, ngành, địa phương vào Trang thông tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhằm thống nhất đầu mối và quản lý, theo dõi chung hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Kinh nghiệm các nước như Anh, Pháp, Hàn Quốc cho thấy, việc hỗ trợ thông tin pháp lý cho doanh nghiệp qua cơ sở dữ liệu, trang tin điện tử là hiệu quả và đáp ứng nhu cầu hỗ trợ của doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số hiện nay.
Ba là, nghiên cứu thí điểm, đánh giá kết quả, nhân rộng việc tuyên truyền, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trên các kênh thông tin khác ngoài kênh thông tin trên Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, các Trang thông tin điện tử… như kênh thông tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên facebook, youtube, twitter và các mạng xã hội khác... đang được đánh giá là có tính tuyên truyền, phố biến cao và tính lan tỏa mạnh mẽ hơn đối với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.
Thứ tư, đảm bảo các điều kiện cần thiết cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
Công việc đầu tiên cần phải làm hiện nay là kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Để thực hiện tốt điều này, Bộ Tư pháp cần chỉ đạo sắp xếp, bố trí nhân sự chuyên trách công tác quản lý nhà nước hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi sự, doanh nghiệp sáng tạo. Trước mắt, cần hình thành bộ phận chuyên trách thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác này tại Bộ Tư pháp với chức năng, nhiệm vụ được xác định rõ ràng hoặc xây dựng một đơn vị độc lập của Bộ Tư pháp đẻ giúp Bộ trưởng thực hiện công tác này (có thể Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế). Bên cạnh đó, cần thành lập Ban Quản lý để điều hành các hoạt động của Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành để triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; quản lý tài chính trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên cả nước và thống nhất chỉ đạo việc xây dựng và triển khai các Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các bộ, ngành, các địa phương; xây dựng và triển khai các mô hình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp sáng tạo trên cả nước.
Việc hình thành đầu mối chuyên trách hoạt động này sẽ giúp cho Bộ Tư pháp triển khai hiệu quả hơn hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời gian tới vì: (1) sẽ có một bộ phận chuyên trách ở Trung ương thường xuyên thực hiện, theo dõi và triển khai hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; (2) tập trung được nguồn lực, kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; và (3) thực hiện hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương trong cả nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Việc đảm bảo kinh phí, cơ cở vật chất, phương tiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là yêu cầu thứ hai mà công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đang cần đến. Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các cơ quan nhà nước trong thời gian gần đây luôn được các cơ quan nhà nước quan tâm, nhưng về cơ bản vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, những người làm việc ở các cơ quan nhà nước nói chung và những cán bộ, viên chức thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý ở Bộ Tư pháp nói riêng đã và đang gặp rất nhiều khó khăn trong công tác và đời sống và điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác của họ. Do đó, để đảm bảo hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tăng cường sự tích cực của các cán bộ, viên chức trong cơ quan nhà nước nói chung và Bộ Tư pháp nói riêng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thì phải quan tâm đáp ứng đầy đủ và kịp thời kinh phí cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đồng thời tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động, đặt biệt là áp dụng công nghệ thông tin trong công tác này.
Thứ năm, tăng cường kiểm tra, giám sát và tổng kết, chia sẻ kinh nghiệm trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực nhất định. Một trong những nguyên nhân dẫn tới những kết quả đáng khích lệ này là sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp với các bộ, ngành liên quan và các Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc triển khai công tác này. Trong những năm qua, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành kiểm tra, giám sát và tổng kết công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các Bộ, ngành và địa phương đại diện cho các tỉnh ở các miền Bắc, Trung và Nam và một số tổ chức đại diện cho doanh nghiệp. Qua công tác kiểm tra, giám sát và tổng kết công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các cơ quan, tổ chức này, Bộ Tư pháp đã tiếp nhận được nhiều thông tin về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp về những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện công tác này, qua đó, giúp Bộ Tư pháp có cơ sở thực tiễn để đề xuất với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền các giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian tới.
Bên cạnh những điểm thành công, công tác này vẫn còn không ít hạn chế cần khắc phục. Vì vậy, trong thời gian tới Bộ Tư pháp cần tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và tổng kết hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhằm kịp thời phát hiện các vướng mắc, khó khăn, uốn nắn kịp thời các nội dung, hình thức hỗ trợ pháp lý không phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. Việc kiểm tra, giám sát và tổng kết công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cần thực hiện có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng công tác kiểm tra đột xuất nhằm kịp thời phát hiện những thiếu sót, vi phạm, nhất là những nơi có nhiều đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp. Thường xuyên tổng kết, đánh giá những mặt được, chưa được trong quá trình kiểm tra, giám sát, từ đó nghiên cứu, tổng hợp đề xuất hoặc sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp không còn phù hợp với thực tiễn hoặc ban hành văn bản chỉ đạo việc thực hiện trong toàn quốc nhằm tạo sự thống nhất trong hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tránh trùng lặp, lẵng phí và hình thức. Trong quá trình tổng kết công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo định kỳ hoặc theo chuyên đề phải hình thành được những quan điểm, những bài học và những hướng dẫn để đảm bảo việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được thực hiện thống nhất theo một quy chuẩn chung mà pháp luật quy định.
Thứ sáu, hoàn thiện chế độ khen thưởng, xử lý vi phạm trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Kịp thời động viên, khen thưởng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có thành tích trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cũng là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng của Bộ Tư pháp. Vì vậy, Bộ Tư pháp cần có các hình thức khen thưởng để khích lệ và tôn vinh các cá nhân, tổ chức làm tốt công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Ví dụ: cần ban hành Quy chế khen thưởng và tổ chức thực hiện các hoạt động khen thưởng một cách thường xuyên để bình chọn, tôn vinh các luật sư, văn phòng luật sư… có nhiều hoạt động thiết thực trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Ví dụ: “Chương trình tôn vinh Luật sư với công tác hỗ trợ pháp lý cho Doanh nghiệp”; “Chương trình Vinh danh Hãng Luật và Luật sư tiêu biểu”…
Bên cạnh các hoạt động nhằm tôn vinh, khen thưởng những tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Tư pháp cũng cần dành sự quan tâm đặc biệt đến việc xử lý vi phạm phát sinh trong lĩnh vực hoạt động này. Trước hết, cần phải có các giải pháp để tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong việc thực hiện các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Cụ thể, cần có giải pháp để bảo đảm việc thông tin phải được cung cấp kịp thời, chính xác khi có yêu cầu; việc thực hiện giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp, tiếp nhận và xử lý các kiến nghị của doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật, cũng cần phải có các chế tài để bảo đảm các nghĩa vụ này phải được thực hiện một cách nhanh chóng, có chất lượng; xử lý nghiêm, kiên quyết thay thế những cán bộ, viên chức nhũng nhiễu, gây phiền hà cho doanh nghiệp trong quá trình thực thi nghiệp vụ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Ví dụ: trường hợp công chức không thực hiện các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp như giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp, tiếp nhận và xử lý các kiến nghị của doanh nghiệp thì có thể xem xét để đánh giá mức độ hoàn thành công việc cuối năm và lấy đó làm căn cứ để xem xét khi bình bầu, khen thưởng cho cán bộ, công chức.
Tóm lại, trong phạm vi chuyên đề nghiên cứu cho thấy, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay và trong thời gian tới. Với tư cách là một trong những hình thức hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp đã được ghi nhận trong các chủ trương của Đảng, Nhà nước, quy định pháp luật, các vấn đề về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tất yếu mà Bộ Tư pháp cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện nhằm tìm ra mô hình điều chỉnh pháp luật phù hợp đối với chúng, bảo đảm sự hoàn thiện và phát triển ổn định ngày càng tốt hơn trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế - xã hội đất nước, nhằm mục đích triển khai đồng bộ các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tạo chuyển biến căn bản về nhận thức pháp lý, ý thức pháp luật và thói quen tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp; tạo lập các điều kiện cần thiết phục vụ hoạt động thực thi pháp luật để giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả; phòng chống rủi ro pháp lý và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; góp phần nâng cao công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp./.
PGS. TS. Dương Đăng Huệ   TS. Trần Minh Sơn 
[1]Bao gồm: (1) cơ sở dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật; (2) cơ sở dữ liệu về vụ việc, vướng mắc pháp lý; (3) dữ liệu về bản án, quyết định của tòa án; phán quyết của trọng tài thương mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; quyết định xử lý vi phạm hành chính liên quan đến doanh nghiệp; (4)  dữ liệu về văn bản trả lời của cơ quan nhà nước đối với vướng mắc pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa; (5) dữ liệu về văn bản tư vấn pháp luật của mạng lưới tư vấn viên pháp luật và thủ tục hỗ trợ chi phí tư vấn pháp luật.
[2] Bao gồm: Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành; Chương trình hỗ trợ pháp lý bộ, ngành và Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương.
[3] Trong số 758.610 doanh nghiệp đăng ký hoạt động hiện nay thì 97,7% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhiều doanh nghiệp siêu nhỏ (Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (số liệu về đăng ký doanh nghiệp Việt Nam tính đến ngày 31/12/2019).
[4] 87,2% doanh nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực bởi COVID-19 trong năm 2020 và những tháng đầu năm 2021, chỉ có 11% không ảnh hưởng gì và gần 2% vẫn kinh doanh tốt (Số liệu năm 2021 của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Ngân hàng Thế giới (WB)).
[5] Còn có các thiết chế khác như các hiệp hội doanh nghiệp, câu lạc bộ, luật sư… cũng có thể thực hiện công việc này một cách độc lập hoặc cùng Nhà nước thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
[6] Điều 22 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012).
[7]Giai đoạn trước năm 2008 là giai đoạn trước khi Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được ban hành.
 
[9] Báo cáo số 292/BC-BTP ngày 31/12/2019 của Bộ Tư pháp tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình 585.
[10] Báo cáo số 292/BC-BTP ngày 31/12/2019 của Bộ Tư pháp tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình 585.
[11]Báo cáo 145/BTP-PLDSKT ngày 16 tháng 12 năm 2013 của Bộ Tư pháp về kết quả khảo sát kinh nghiệm nước ngoài về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và ý kiến của GS. Steve Van Houten (Quốc tịch Canada), cố vấn cao cấp Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB (hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn cho Bộ Tư pháp Việt Nam kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Việt Nam).
[12] Báo cáo 145/BTP-PLDSKT ngày 16 tháng 12 năm 2013 của Bộ Tư pháp về kết quả khảo sát kinh nghiệm nước ngoài về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
[13]Nguồn: Báo cáo của Chương trình hỗ trợ kỹ thuật của EC cho Việt Nam (ETV2) tại Hội thảo: "Kinh nghiệm một số nước về trợ giúp pháp luật cho doanh nghiệp và nghiên cứu vận dụng tại Bộ Tài chính" ngày 15/11/2007.
[14] Báo cáo số 319/BC-BTP ngày 28/12/2018 của Bộ Tư pháp tổng kết 10 năm thi hành Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
[15] Báo cáo 145/BTP-PLDSKT ngày 16/12/2013 của Bộ Tư pháp về kết quả khảo sát kinh nghiệm nước ngoài về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
[16] Báo cáo 145/BTP-PLDSKT ngày 16/12/2013 của Bộ Tư pháp về kết quả khảo sát kinh nghiệm nước ngoài về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
[17] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo kết quả, tập II, trang 31.
[18] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược, tập I, trang 243.
[19] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược, tập I, trang 287.
[20] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo, tập I, trang 200.
[21] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo, tập II, trang 126.
[22]Các mô hình này đã được triển khai hiệu quả ở một số tỉnh phía Bắc và phía Nam như: Quảng Ninh, Bắc Giang, Đồng Nai, Long An…
[23]PCI: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh: PAPI: Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh: ICT index: Chỉ số công nghệ thông tin và truyền thông; SIPAS: Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính.

Xem thêm »