1.1. Khái niệm quảng cáo
Khái niệm quảng cáo được pháp luật Việt Nam quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật quảng cáo năm 2012 như sau: “
Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân”. Mặt khác, tại Điều 102 Luật thương mại năm 2005 quy định về quảng cáo thương mại, theo đó:
“Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình
Như vậy, hiện đang tồn tại hai khái niệm quảng cáo, đó là
quảng cáo và
quảng cáo thương mại, suy cho cùng, bản chất của hoạt động quảng cáo đó là việc giới thiệu hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nhằm thu hút và gây sự chú ý của khách hàng thông qua các sản phẩm quảng cáo. Sản phẩm quảng cáo có thể là phim quảng cáo, tấm pa nô, áp phích, tờ rơi, bảng biển, hình ảnh và lô gô quảng cáo trên mạng ..v..v..
1.2. Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo.
Luật quảng cáo năm 2012 không đưa ra giải thích thế nào là cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo mà chỉ quy định các hành vi bị cấm trong hoạt động quảng cáo tại Điều 8 gồm 16 nhóm hành vi, trong đó có hành vi
“Quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh”. Như vậy, để hiểu thế nào là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo, ta cần xem xét các quy định cụ thể tại Luật cạnh tranh năm 2004.
Khoản 4 Điều 3 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định: “
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Như vậy, trong hoạt động quảng cáo mà các doanh nghiệp có hành vi cạnh tranh
trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh nhằm xâm phạm đối thủ cạnh tranh hay người tiêu dùng vì mục đích cạnh tranh thì bị coi là đã thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo. Bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là mọi hành vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại đến doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan và hoạt động cạnh tranh bình thường trên thị trường. Như vậy, khi đề cập đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh người ta thường nhấn mạnh đến tính “không lành mạnh” của hành vi cạnh tranh, tức là những hành vi cạnh tranh không đẹp, không phù hợp với đạo đức kinh doanh mà nhắm trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh hoặc người tiêu dùng.
1.3. Đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo là một dạng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh nên nó cũng có các đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo là hành vi cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận. Chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo đó là tổ chức, cá nhân kinh doanh tham gia thị trường tìm kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên, chuyên nghiệp (doanh nghiệp). Khoản 1 Điều 2 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định Luật này áp dụng với tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam. Có thể thấy rằng, vấn đề chủ thể thực hiện hành vi trong Luật cạnh tranh có sự mâu thuẫn so với quy định của Luật thương mại 2005 bởi Luật thương mại không quy định cá nhân là doanh nghiệp.
Thứ hai, cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo là hành vi có tính chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh (có thể hiểu là các quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh trên thị trường). Các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo được hình thành và hoàn thiện qua bề dày thực tiễn phát triển kinh tế xã hội. Để có thể phân định một hành vi có đi ngược lại những quy tắc xử sự chung trong kinh doanh hay không thì đòi hỏi cơ quan xử lí hành vi vi phạm cần hiểu biết và đánh giá sâu sắc về thực tiễn thị trường.
Thứ ba, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho các chủ thể khác, đặc biệt là ảnh hưởng tới người tiêu dùng – đối tượng “yếu thế” hơn trong việc tiếp cận thông tin sản phẩm.
Trên đây là một số đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo, trong từng hành vi quảng cáo riêng biệt sẽ xuất hiện những đặc thù.
2. Một số quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo được quy định tại Điều 45 Luật cạnh tranh năm 2004, theo đó cấm ba dạng hành vi: quảng cáo so sánh, quảng cáo bắt chước và quảng cáo gây nhầm lẫn. Đây là ba dạng hành vi có bản chất cạnh tranh không lành mạnh khác nhau, mặc dù cùng thể hiện qua một hoạt động thị trường quen thuộc đó là quảng cáo.
2.1. Quảng cáo so sánh
Khoản 1 Điều 45 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định cấm doanh nghiệp thực hiện hoạt động quảng cáo:
“So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác”. Có thể hiểu một cách đơn giản quảng cáo so sánh là quảng cáo trong đó có nội dung so sánh hàng hóa, dịch vụ, khả năng kinh doanh của một doanh nghiệp (người quảng cáo) với đối tượng cùng loại của một hay một số doanh nghiệp cạnh tranh khác. Việt Nam là một trong số ít quốc gia có quy định cấm quảng cáo so sánh trong pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên khoản 1 Điều 45 chỉ cấm hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ. Tính chất trực tiếp thể hiện ở chỗ nội dung quảng cáo đề cập một loại hàng hóa, dịch vụ cạnh tranh hoặc đối thủ cạnh tranh đã cung cấp hàng hóa, dịch vụ đó. Sự đề cập có thể bằng lời nói, chữ viết hoặc các yếu tố khác cấu thành nội dung quảng cáo (như hình ảnh, âm thanh…), khiến người tiếp nhận quảng cáo nhận thức được về hàng hóa, dịch vụ và đối thủ cạnh tranh. Những trường hợp ám chỉ, suy diễn sẽ không được coi là thuộc phạm vi so sánh trực tiếp. Về nội dung, quảng cáo so sánh có thể bao gồm quảng cáo so sánh về giá và quảng cáo so sánh về đặc điểm của hàng hóa, dịch vụ (tính năng, công dụng, chất lượng…).
Như vậy, bản chất của hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp được biểu hiện thông qua việc cố ý đưa vào các sản phẩm quảng cáo của doanh nghiệp mình các thông tin mang tính chất so sánh trực tiếp giữa hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác theo hướng có lợi cho doanh nghiệp mình. Nói cách khác, đây là hành vi quảng cáo sản phẩm của mình nhưng cố ý đưa vào đó những lời lẽ, tuyên bố làm mất uy tín về sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Hệ quả của hành vi này gây nên cho người tiêu dùng sự so sánh (thông thường chủ yếu tập trung vào yếu tố chất lượng, giá cả) về hàng hóa, dịch vụ cùng loại theo hướng có lợi cho doanh nghiệp có hành vi quảng cáo so sánh, tạo cho khách hàng tâm lý không tốt đối với sản phẩm hàng hóa dịch vụ cùng loại của đối thủ cạnh tranh.
2.1. Quảng cáo bắt chước
Khoản 2 Điều 45 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định đơn giản về quảng cáo bắt chước như sau:
“Cấm doanh nghiệp bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “bắt chước” được hiểu là “làm theo cách của người khác”. Quảng cáo bắt chước là quảng cáo được thực hiện với nội dung, cách thức giống hệt hoặc tương tự quảng cáo của người khác. Khoản 3 Điều 2 Luật quảng cáo năm 2012 quy định:
“Sản phẩm quảng cáo bao gồm nội dung và hình thức quảng cáo được thể hiện bằng hình ảnh, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng và các hình thức tương tự” và Điều 105 Luật thương mại năm 2005 quy định:
“Sản phẩm quảng cáo thương mại gồm những thông tin bằng hình ảnh, hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc, ánh sáng chứa đựng nội dung quảng cáo thương mại”. Từ đó có thể thấy, một sản phẩm quảng cáo bao gồm 02 yếu tố, đó là: hình thức quảng cáo và nội dung quảng cáo. Vậy có thể hiểu việc bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác là hành vi của doanh nghiệp cố ý làm giống, tương tự một và/hoặc một vài yếu tố nêu trên của sản phẩm quảng cáo khác của đối thủ cạnh tranh. Hệ quả của hành vi này là làm cho người tiêu dùng không phân biệt được hoặc khó phân biệt được đến mức có thể gây nhầm lẫn với sản phẩm quảng cáo khác của đối thủ cạnh tranh. Từ việc nhầm lẫn về sản phẩm quảng cáo, rồi đến là nhầm lẫn hàng hóa, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh được thể hiện trong sản phẩm quảng cáo đó. Quảng cáo là sản phẩm sáng tạo, do đó việc sao chép nội dung, cách thức sản phẩm quảng cáo cũng đặt ra vấn đề về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, việc bảo hộ quyền tác giả chỉ quan tâm đến việc chống sao chép sản phẩm, có nghĩa là bắt chước tuyệt đối. Một quảng cáo bắt chước được sử dụng để quảng cáo một hàng hóa, dịch vụ khác so với quảng cáo mẫu, do đó không thể là một sự bắt chước y hệt. Thêm vào đó, trên thực tế người bắt chước thường có xu hướng thay đổi một số chi tiết nhất định nhằm tránh ấn tượng quá lộ liễu. Do đó, một lần nữa trong trường hợp này pháp luật về cạnh tranh lại được sử dụng để giải quyết các nội dung liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
Tính chất không lành mạnh của quảng cáo bắt chước cũng thể hiện chủ yếu ở việc lợi dụng thành quả đầu tư, lợi thế cạnh tranh của người khác
[1], khiến cho người tiêu dùng ngộ nhận rằng hai loại hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo thuộc cùng một chủ sản xuất hoặc cho dù không nhầm lẫn rằng hai loại hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo thuộc cùng một nguồn gốc, người tiếp nhận quảng cáo vẫn có thể cho rằng giữa hai nhà sản xuất có mối liên quan, liên hệ trong kinh doanh, thuộc cùng một tập đoàn, có quan hệ đối tác hay ủy thác, nhượng quyền…
2.3. Quảng cáo gây nhầm lẫn
Quy định về quảng cáo gây nhầm lẫn nằm tại khoản 3 Điều 45 của Luật cạnh tranh năm 2004, theo đó cấm doanh nghiệp đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung sau đây:
“- Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công;
- Cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành;
- Các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác”.
Như vậy, quảng cáo gây nhầm lẫn được chia ra hai loại, đó là quảng cáo gian dối và quảng cáo gây nhầm lẫn. Có thể nói rằng, đây là dạng hành vi quảng cáo vi phạm về cạnh tranh không lành mạnh phổ biến nhất, thường gặp nhất. Việc điều chỉnh quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn động chạm đến vấn đề cốt lõi của quảng cáo với tư cách là loại hình thông tin đặc biệt. Đó là vấn đề về tính trung thực của thông tin. Tính trung thực đó được đánh giá theo tác động của nó đến người tiếp nhận quảng cáo. Xét trên một khía cạnh, cả hai loại quảng cáo so sánh và quảng cáo bắt chước được nêu ở các phần trên đây đều thể hiện khía cạnh gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hai dạng hành vi này bằng những chế định riêng do đánh giá tác động đặc thù của nó lên đối tượng khác là những đối thủ cạnh tranh. Ở chế định thứ ba này, đối tượng tác động của hành vi quảng cáo trực tiếp đặt ra là các khách hàng và người tiêu dùng nói chung, những người tiếp nhận quảng cáo và hành động theo những định hướng từ nội dung quảng cáo.
Khoản 3 Điều 45 Luật cạnh tranh năm 2004 đã liệt kê tương đối nhiều nội dung quảng cáo có thể gian dối hoặc gây nhầm lẫn như:
- Gian dối, gây nhầm lẫn về sản phẩm hàng hóa, dịch vụ: bao gồm cả giá cả, chất lượng, đặc điểm, khả năng và tình trạng cung ứng;
- Gian dối gây nhầm lẫn về uy tín, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp;
- Gian dối, gây nhầm lẫn về bản chất của giao dịch (giao dịch mua bán nhưng làm người tiêu dùng hiểu lầm thành tặng cho, sản phẩm sử dụng miễn phí…)..v..v..
Như vậy, có thể hiểu quảng cáo gian dối là quảng cáo đưa ra nội dung thông tin sai lệch so với thực tế khách quan, từ đó lừa dối người tiêu dùng. Còn quảng cáo gây nhầm lẫn là quảng cáo trong đó không đưa ra thông tin sai nhưng nội dung không đầy đủ, không rõ ràng hoặc bỏ sót, từ đó tạo sự hiểu lầm cho người tiêu dùng. Có nhiều quan điểm khác nhau trong việc phân biệt giữa quảng cáo gian dối và quảng cáo gây nhầm lẫn. Trên thực tế, đa số các quốc gia đã chọn giải pháp quy định hai dạng hành vi gian dối và gây nhầm lẫn cùng chung trong một điều luật với cách thức và chế tài xử lí như nhau và Việt Nam cũng đi theo hướng này khi quy định quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn chung tại khoản 3 Điều 45 Luật Cạnh tranh năm 2004. Tóm lại, khoản 3 Điều 45 Luật cạnh tranh năm 2004 cấm doanh nghiệp thực hiện hành vi cố ý tạo ra những sản phẩm quảng cáo chứa các thông tin không đúng hoặc có tính chất mập mờ về một hoặc các yếu tố như: giá, số lượng, chất lượng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công; cách thức phục vụ, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành… Đây là hành vi xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của khách hàng, người tiêu dùng. Thông tin chứa đựng các yếu tố này là dữ liệu liên quan đến hàng hóa, dịch vụ để phân biệt với hàng hóa, dịch vụ cùng loại khác.
Ngoài ra, khoản 4 Điều 45 Luật cạnh tranh năm 2004 còn quy định cấm các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật khác có quy định cấm. Đây là quy phạm mở, theo đó Luật Cạnh tranh không chỉ cấm các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được quy định nêu trên mà còn cấm các hoạt động quảng cáo khác được quy định trong các văn bản pháp luật khác nếu hành vi đó thoả mãn các tiêu chí của cạnh tranh không lành mạnh.
Điều 33 Nghị định của Chính phủ số 71/2014/NĐ-CP ngày 30/9/2005 quy định
chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh quy định mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh như sau:
- Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với hành vi quảng cáo: (i) So sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác; (ii) Bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng.
- Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 140.000.000 đồng đối với hành vi quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về một trong các nội dung: Giá, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, người sản xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công; cách thức sử dụng, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành; các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định trên, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả sau: tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; Buộc cải chính công khai.
3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo
3.1. Trước hết, cần phải xác định rõ ràng mối quan hệ giữa Luật cạnh tranh và các văn bản pháp luật khác cũng có quy định điều chỉnh hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Trong đó, Luật cạnh tranh đặt ra những nguyên tắc cơ bản cho việc nhận dạng hành vi và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các văn bản pháp luật khác khi quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực điều chỉnh phải tuân thủ theo đúng các nguyên tắc này. Các văn bản pháp luật khác quy định chi tiết và bổ sung cho Luật cạnh tranh về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực điều chỉnh. Đồng thời, Luật cạnh tranh cần sửa đổi, bổ sung thêm các hành vi mới phát sinh trong giai đoạn hiện nay.
Điều đó bắt nguồn từ thực tiễn hiện nay, hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung, trong lĩnh vực quảng cáo nói riêng hiện nay ở Việt Nam không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật cạnh tranh mà còn được rất nhiều các văn bản pháp luật điều chỉnh như: Luật thương mại, Luật quảng cáo, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật dược, Luật giá, Luật Sở hữu trí tuệ…Việc hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại văn bản luật khác nhau, được thực thi bởi các cơ quan quản lý nhà nước khác nhau dẫn đến chồng chéo về thẩm quyền xử lý hoặc khả năng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan thực thi pháp luật hay dẫn đến những tranh cãi lớn trên bình diện xã hội do chạm đến những nhóm quyền lợi khác nhau.
Điều 109 Luật Thương mại năm 2005 quy định chi tiết thêm hai hành vi quảng cáo thương mại bị nghiêm cấm vi phạm tính trung thực về nội dung quảng cáo như hành vi quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cùng loại của thương nhân khác; và hành vi quảng cáo sai sự thật về một trong các nội dung số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, xuất xứ hàng hoá, chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của hàng hoá dịch vụ. Có ngoại lệ trong trường hợp này, đó là việc sản phẩm quảng cáo có nội dung so sánh hàng hóa của mình với hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ sau khi có xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về việc sử dụng những hàng hóa này để so sánh thì không bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh dưới dạng quảng cáo so sánh
[2]. Hoạt động quảng cáo ngoài chịu sự điều chỉnh của các quy định mang tính chất chung nêu trên còn chịu sự điều chỉnh rất chặt chẽ và chi tiết trong từng lĩnh vực cụ thể. Trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 có nhiều quy định nghiêm cấm các hành vi thông tin, quảng cáo sai sự thật và các hành vi khác nhằm lừa dối người tiêu dùng (Điều 10).
Điều chỉnh quảng cáo về chất lượng hàng hóa, khoản 2 Điều 9 Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 quy định nghiêm cấm hành vi: “
Thông tin, quảng cáo sai sự thật và các hành vi gian dối khác trong hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật”. Điều chỉnh về quảng cáo giá cả, khoản 2 Điều 10 Luật giá năm 2012 quy định cấm các hành vi như gian lận về giá bằng cách cố ý thay đổi các nội dung đã cam kết mà không thông báo trước với khách hàng về thời gian, địa điểm, điều kiện mua, bán, chất lượng hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm giao hàng, cung ứng dịch vụ; nghiêm cấm hành vi định giá sai để lừa dối người tiêu dùng hoặc tổ chức, cá nhân hợp tác sản xuất, kinh doanh với mình. Điều chỉnh về quảng cáo trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010 cấm hành vi
thông tin, quảng cáo sai sự thật về nội dung, phạm vi hoạt động, điều kiện bảo hiểm làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm. Trong lĩnh vực dược, khoản 5 Điều 9 Luật dược năm 2005 cũng có quy định nghiêm cấm
hành vi thông tin, quảng cáo thuốc sai sự thật, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng..v..v..
3.2. Cần thống nhất trong các quy định của pháp luật về các hành vi đã được quy định trong Luật cạnh tranh và các văn bản pháp luật chuyên ngành; rà soát sự khác biệt hoặc sự trùng lặp trong các quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo để quy định một cách đồng bộ, thống nhất. Việc Luật quảng cáo năm 2012 quy định tại Điều 8 về các hành vi bị cấm trong hoạt động thì khoản 12 (Quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh) đã bao trùm lên cả khoản 9
(Quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố) và khoản 10 (
Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp về giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình với giá cả, chất lượng, hiệu quả sử dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại của tổ chức, cá nhân khác). Vì vậy không nhất thiết phải quy định khoản 9 và khoản 10 Điều 8 Luật Quảng cáo năm 2012. Để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật thì cùng một hành vi nên chỉ có một khái niệm mô tả hành vi. Như vậy, việc thực thi pháp luật vừa đảm bảo được hiệu quả, vừa đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng của pháp luật. Do đó, cần rà soát lại tất cả các văn bản pháp luật liên quan điều chỉnh về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo để có kế hoạch sửa đổi một cách đồng bộ.
3.3. Về khái niệm “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh” theo khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2014, theo đó quy định
“Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Khoản 2 Điều 10bis Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quy định
“Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là mọi hành vi đi ngược lại các tập quán trung thực trong lĩnh vực công nghiệp hoặc thương mại” . Như vậy, cách tiếp cận hành vi cạnh tranh không lành mạnh về cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, định nghĩa sẽ trọn vẹn hơn khi giới hạn hậu quả của hành vi này một cách phù hợp bởi quy định “thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước” là quá rộng và chưa phù hợp với bản chất của hành vi. Hơn nữam cụm từ “chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh” cũng cần được làm rõ và phù hợp hơn với Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
3.4. Cần thống nhất mức xử lý vi phạm đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo được quy định trong Luật cạnh tranh và trong các văn bản pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực pháp luật cụ thể. Với tình trạng hiện nay, khi hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong quảng cáo được quy định đồng thời trong nhiều văn bản pháp luật thì đã xảy ra tình trạng cùng một hành vi nhưng lại áp dụng các mức xử lý khác nhau. Do đó, vấn đề cần giải quyết là có sự phối hợp giữa các lĩnh vực pháp luật khác nhau khi xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung và trong lĩnh vực quảng cáo nói riêng và cần có những sửa đối cần thiết khi có sự thay đổi trong việc áp dụng các biện pháp xử lý. Hơn nữa, cần nâng cao mức xử lí vi phạm để bảo đảm tính răn đe, ngăn ngừa việc tiếp tục thực hiện hàh vi vi phạm.
3.5. Về thủ tục xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo. Sự tồn tại nhiều văn bản pháp luật quy định về hành vi này có thể gây ra một hệ lụy là cùng một hành vi có nhiều cơ quan có thẩm quyền và áp dụng các thủ tục khác nhau để xử lý. Luật cạnh tranh đã xây dựng tố tụng cạnh tranh để xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong đó có hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo. Trong khi đó, ở các lĩnh vực pháp luật khác nó lại được nhìn nhận như một dạng vi phạm về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực này nên thủ tục áp dụng để xử lý là thủ tục xử lý vi phạm hành chính thông thường. Tương ứng với các thủ tục này là thẩm quyền xử lý sẽ thuộc các cơ quan quản lý chuyên ngành. Chính vì vậy, với đặc thù của lĩnh vực cạnh tranh, cho dù được hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong quảng cáo được quy định ở lĩnh vực pháp luật nào thì việc xử lý chúng cần phải được thực hiện một cách thống nhất; cần xây dựng trình tự, thủ tục điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh theo hướng đơn giản, nhanh gọn hơn. Đồng thời nghiên cứu thêm về cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với cơ quan quản lý chuyên ngành kinh tế cụ thể khi tiến hành điều tra và xử lý các vụ việc về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo nhằm có được những đánh giá chuyên môn theo chuyên ngành, từ đó nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và lòng tin của người tiêu dùng đối với khả năng quản lí thị trường của Nhà nước…
LNT
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội – Giáo trình Luật cạnh tranh, NXB CAND, Hà Nội, 2011.
2. Luật cạnh tranh năm 2004.
3. Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
4. Luật giá năm 2012.
5. Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).
6. Luật quảng cáo năm 2012.
7. Luật dược năm 2005
8. Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006.
9. Luật thương mại năm 2005.
10. Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định
chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh
11. Nghị định số 37/2006NĐ-CP ngày 04/4/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về xúc tiến thương mại