Kinh nghiệm giáo dục pháp luật cho doanh nghiệp tại một số nước

23/12/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Kinh nghiệm giáo dục pháp luật cho doanh nghiệp tại một số nước


1. Kinh nghiệm giáo dục pháp luật cho doanh nghiệp tại Canada
Hoạt động giáo dục pháp luật cho doanh nghiệp tại Canada được thực hiện thông qua Hiệp hội hỗ trợ doanh nghiệp Liên bang, dưới sự kiểm soát hành chính của Bộ Thương mại Canada (Canada Department of Trade and Commerce). Hiệp hội hỗ trợ doanh nghiệp liên bang có các tổ chức “chân rết” thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các tiểu bang. Về hình thức hỗ trợ, Hiệp hội đưa ra các hoạt động khá phong phú: tổ chức tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp, NLĐ, NSDLĐ; đại diện cho các hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp thành viên tham gia vào quá trình tố tụng, tranh tụng; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp, trong đó tập trung vào các kỹ năng quản lý, xử lý thông tin pháp lý… 
Bên cạnh Hiệp hội hỗ trợ doanh nghiệp Liên bang, việc triển khai các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Canada còn được thực hiện thông qua các tổ chức nghề nghiệp đặc thù, căn cứ vào nhu cầu, tình hình kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc phụ thuộc vào chính sách của từng bang. Ví dụ, tại Canada, với đặc thù phát triển mạnh mẽ của ngành kinh tế mũi nhọn trong lĩnh vực tài chính, Chính phủ Canada cho phép thành lập Hiệp hội Tài chính & Cho thuê (The Canadian Finance & Leasing Association viết tắt CFLA) trong đó có bộ phận pháp chế (Legal Division) thực hiện chức năng hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, hội viên như: đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ tài chính, dịch vụ cho thuê; cung cấp các thông tin, chính sách pháp lý mới trong hoạt động tài chính; phân tích rủi ro, tư vấn pháp lý chuyên sâu đối với lĩnh vực này. 
Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, Người lao động (NLĐ) ở Canada được thực hiện mạnh mẽ, có hiệu quả đặc biệt là việc ứng dụng CNTT trong việc thanh toán thù lao cho các luật sư, báo cáo viên hay trong việc đánh giá chất lượng của công tác này [1, tr. 53].
2. Kinh nghiệm giáo dục pháp luật cho doanh nghiệp tại Pháp
Trong Luật tiếp cận với pháp luật của Pháp có chương số 78-753 quy định rõ các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm trả lời chính xác mọi câu hỏi của cá nhân và doanh nghiệp có liên quan đến quy định của pháp luật. 
Chính phủ Pháp có nhiều chương tình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đặc biệt là NLĐ như yêu cầu các bộ, ngành xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về: VBQPPL; vụ việc, vướng mắc pháp lý. Bên cạnh đó, các bộ, ngành phải xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật dữ liệu về: Bản án, quyết định của tòa án; phán quyết của trọng tài thương mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; quyết định xử lý vi phạm hành chính liên quan đến doanh nghiệp; văn bản trả lời của cơ quan nhà nước đối với vướng mắc pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa; văn bản tư vấn pháp luật của mạng lưới tư vấn viên pháp luật và thủ tục hỗ trợ chi phí tư vấn pháp luật. Đây là cơ sở dữ liệu mà các doanh nghiệp tại Pháp có thể tham khảo.
Liên quan đến việc xã hội hóa hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, các liên đoàn nghề nghiệp, hội nhà nghề... đều có website có chuyên trang về hỗ trợ pháp lý. Ví dụ như tại Pháp có hẳn một website miễn phí (French-Business-Lawer.com) được thành lập lên bởi các luật sư, tư vấn miễn phí cho các cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước muốn đến Pháp kinh doanh, bao gồm các lĩnh vực như: Thành lập công ty; hợp đồng thương mại; sở hữu trí tuệ; mua, bán cho thuê bất động sản…
Riêng trong lĩnh vực kinh tế, tài chính, website của Bộ Kinh tế và Tài chính Pháp có chuyên trang về pháp luật, trong đó có các chuyên mục về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (economie.gouv.fr) như “dịch vụ công”, “tài liệu đối thoại doanh nghiệp”, “hỏi đáp về văn bản pháp luật”, “trả lời vướng mắc doanh nghiệp”... Tại đây, các doanh nghiệp có thể hỏi và được giải đáp các chính sách pháp luật về thuế, về các chương trình tài chính hỗ trợ cho doanh nghiệp mới khởi nghiệp, về ưu đãi liên quan đến xuất nhập khẩu. Hiện nay, Pháp cũng là một trong những quốc gia có nhiều chương trình tài trợ cho các nước phát triển xây dựng các chuyên trang pháp luật tài chính trong đó có Việt Nam.
Nhìn chung, Pháp là một trong số ít những quốc gia thu hút được nguồn lực xã hội từ bên ngoài đóng góp cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mà không dựa nhiều vào các chương trình của chính phủ [2, tr. 56]. 
3. Kinh nghiệm giáo dục pháp luật cho doanh nghiệp tại Australia
Chính phủ Liên bang Australia cho rằng trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, các quốc gia đa số là thành viên của các tổ chức quốc tế, tham gia ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương, trong đó, thể hiện rõ sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là phù hợp với xu thế chung của nhân loại. Vì vậy, mọi hoạt động hỗ trợ, bao gồm hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp không thuộc trách nhiệm, nghĩa vụ của quốc gia, vấn đề này thuộc nội tại của từng doanh nghiệp. Theo quan điểm này, doanh nghiệp phải tự tìm hiểu, trang bị kiến thức pháp luật, hoặc khi có vấn đề pháp lý xảy ra trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư của mình, doanh nghiệp chủ động tìm tới các văn phòng luật sư, công ty luật, nơi thực hiện các dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp để được tư vấn, hỗ trợ và tìm giải pháp [3, tr. 63]
4. Kinh nghiệm giáo dục pháp luật cho doanh nghiệp tại Hàn Quốc
Hàn Quốc là một trong số ít những quốc gia phát triển có hệ thống hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp hiệu quả nhất trên thế giới. Mô hình tổ chức quản lý công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại đây được vận hành đa dạng, dưới nhiều hình thức khác nhau như hỗ trợ thông tin pháp lý; tư vấn pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, phù hợp với mục tiêu của từng loại hình doanh nghiệp. Bộ máy quản lý công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Hàn Quốc nằm rải rác tại các Bộ, ngành khác nhau, thậm chí tại các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan. Một số hoạt động hỗ trợ tiêu biểu như sau:
Liên quan tới công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, Chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ thông tin pháp lý cho doanh nghiệp thông qua việc thành lập Trung tâm dịch vụ hỗ trợ pháp luật quản lý Trang thông tin hỗ trợ pháp lý tại các tên miền www.klaw.go.kr và www.law.go.kr. Tại đây, sau khi thực hiện thủ tục đăng ký đơn giản trên internet, doanh nghiệp và người dân có thể dễ dàng khai thác và sử dụng các dịch vụ tiện ích miễn phí:
- Tra cứu các chính sách, VBQPPL qua các năm hoặc theo từng lĩnh vực chuyên ngành như đất đai, quản trị doanh nghiệp, đầu tư, thuế, sở hữu trí tuệ; Tra cứu các vụ án đã có hiệu lực thi hành theo từng lĩnh vực; Tra cứu, tìm hiểu và được giải thích về các thuật ngữ pháp lý thông dụng, phức tạp; Thông qua website, cá nhân/doanh nghiệp nhận được sự cố vấn trong việc tìm kiếm, liên hệ luật sư phù hợp cho từng vụ việc cụ thể; Cá nhân/doanh nghiệp trong và ngoài nước có thể đề xuất ý kiến, tham vấn cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các chính sách, VBQPPL,...
Bộ Tư pháp Hàn quốc quản lý Cơ quan quản lý công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp gồm 06 thành viên (01 luật sư, 01 công tố viên, 04 chuyên gia pháp lý), các thành viên hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm, chủ yếu thực hiện chức năng hỗ trợ tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp, NLĐ. Đối với các vụ việc đơn giản, bộ phận này thực hiện hỗ trợ tư vấn miễn phí thông qua các phương thức: văn bản, telephone, fax, email. Đối với các vụ việc phức tạp, các thành viên thuộc nhóm có nhiệm vụ hỗ trợ, làm đầu mối kết nối giữa cá nhân/doanh nghiệp thông qua mạng lưới luật sư, chuyên gia đăng ký tham gia mạng lưới hỗ trợ; tư vấn lựa chọn luật sư phù hợp, đảm bảo hiệu quả xử lý vụ việc. Trong trường hợp này, Nhà nước hỗ trợ 1/3 kinh phí nhưng tối đa là 2.000 USD/vụ việc tư vấn.
Bộ Kinh tế - Tài chính Hàn Quốc: Chức năng quản lý công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được giao cho Cục Quản lý doanh nghiệp, đối tượng thụ hưởng chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc sự quản lý của Bộ. Tại đây, bên cạnh các hình thức hỗ trợ về vốn, công nghệ, một trong những chức năng quan trọng của Cục là xây dựng chế độ, chính sách pháp luật kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là các hoạt động hỗ trợ cụ thể như: Các doanh nghiệp mới thành lập hoặc gặp khó khăn trong việc áp dụng, thi hành pháp luật sẽ được hướng dẫn xây dựng hệ thống văn bản quản lý, điều hành doanh nghiệp, điều lệ doanh nghiệp; giải thích, áp dụng các quy định của pháp luật nhằm phòng tránh rủi ro trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, thực hiện hoạt động đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp, Bộ Kinh tế - Tài chính Hàn Quốc đã thành lập Viện doanh nhân Hàn Quốc, trong đó tập trung đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức chuyên sâu về quản trị doanh nghiệp, kỹ năng lãnh đạo doanh nghiệp.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Hàn Quốc (KCCI): Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Hàn Quốc còn được thực hiện thông qua KCCI. Đây là tổ chức độc lập với Chính phủ, được thành lập với mục tiêu vì lợi ích của doanh nghiệp thành viên (KCCI hiện nay đang quản lý hơn 140.000 doanh nghiệp hội viên) và đóng góp vì sự phát triển của xã hội và quốc gia. Hoạt động theo nguyên tắc công bằng xã hội, đặt lợi ích của doanh nghiệp lên hàng đầu. Liên quan tới hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, KCCI thực hiện các chức năng chủ yếu sau: KCCI có một một bộ phận riêng thực hiện chức năng tiếp thu ý kiến của doanh nghiệp hội viên về việc xây dựng chính sách, pháp luật, tổng hợp, đệ trình tới Quốc hội và Chính phủ; KCCI thành lập Trung tâm tư vấn pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp hội viên đối với các vụ việc cụ thể như: tư vấn soạn thảo, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng; hỗ trợ tư vấn, tháo gỡ vướng mắc đối với các vụ việc đơn giản; hỗ trợ liên hệ luật sư, chuyên gia tư vấn đối với các vụ việc phức tạp, ưu tiên cho NLĐ; Hỗ trợ doanh nghiệp hội viên trong việc áp dụng các chính sách, quy định của pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh; Phổ biến, cập nhật kiến thức pháp luật mới cho các doanh nghiệp hội viên, xây dựng các cuốn tài liệu, cẩm nang hỗ trợ doanh nghiệp hội viên trong việc thực thi pháp luật [4, tr. 63].
5. Kinh nghiệm giáo dục pháp luật tại Singapore 
Hiện nay, Singapore đang được coi là thiên đường cho các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và là Trung tâm tài chính hàng đầu thế giới. Chính phủ Singapore có nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp, trong đó có hỗ trợ về pháp lý. Cung cấp thông tin pháp lý cho doanh nghiệp cũng là một kênh hỗ trợ quan trọng của Chính phủ. Tổ chức phát triển doanh nghiệp (IE) của Singapore có trên 30 văn phòng ở nhiều quốc gia trên thế giới, riêng ở Việt Nam có 2 văn phòng đại diện tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực tài chính, Website của Bộ Tài chính Singapore có chuyên mục riêng giải đáp các vương mắc của doanh nghiệp về tài chính, thuế; chi phí doanh nghiệp... các giám đốc, nhà quản lý doanh nghiệp có thể hỏi đáp trực tuyến với các chuyên gia kinh tế hàng đầu về kinh nghiệm và thông lệ kinh doanh quốc tế. Trang web này cũng là nơi tập hợp, lưu giữ hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho các doanh nghiệp nghiên cứu.
Các cơ quan quản lý nhà nước còn xuất bản một số tạp chí dành riêng cho giới doanh nghiệp để phổ biến những chủ trương, chính sách mới của Chính phủ có liên quan đến doanh nghiệp; Đây cũng là diễn đàn để các doanh nghiệp trao đổi quan điểm của mình về những thuận lợi hoặc lực cản từ cơ chế quản lý của Nhà nước, chia sẻ kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp, thông tin về đổi mới công nghệ... Ngoài ra các tổ chức này còn in các tờ gấp giới thiệu chi tiết về địa chỉ các văn phòng, các dịch vụ thông tin, các chương trình đào tạo, hỗ trợ... để các doanh nghiệp trong và ngoài nước lựa chọn [5, tr. 70].
Vận dụng vào Việt Nam 
Từ kinh nghiệm GDPL tại một số quốc gia trên thế giới, gồm Canada, Pháp, Australia, Hàn Quốc, Singapore, luận án đã rút ra một số bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào công tác GDPL tại Việt Nam nói chung và NLĐ nói riêng:
Thứ nhất, nghiên cứu kinh nghiệm từ quốc tế cho thấy, hoạt động GDPL cho doanh nghiệp cần nhận được sự quan tâm từ nhà nước. Một số quốc gia đã quy định cụ thể công tác này trong các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao như Bộ luật, Luật, từ đó làm cơ sở để triển khai các văn bản hướng thực hiện. Ví dụ như tại Pháp đã ban hành Luật về tiếp cận với pháp luật; Australia ban hành Đạo luật Tự do thông tin... Vì vậy, cần bảo đảm việc GDPL và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được thực hiện kịp thời, đúng đối tượng khi các văn bản pháp luật mới được ban hành. 
Tuy nhiên ở chiều ngược lại, đối với các chương trình GDPL cho doanh nghiệp, NLĐ, Việt Nam cần nâng cao nhận thức cho người sử dụng lao động (NSDLĐ), NLĐ và các tổ chức, cá nhân có liên quan hiểu rằng trách nhiệm GDPL không chỉ từ phía nhà nước mà cần phát huy vai trò chủ động của doanh nghiệp, sự tham gia chủ động, tích cực từ phía NLĐ, NSDLĐ, cán bộ công đoàn, như vậy mới đạt được hiệu quả. Như tại Australia và một số quốc gia phát triển khác trên thế giới cho rằng: hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp không thuộc trách nhiệm, nghĩa vụ của quốc gia, vấn đề này thuộc nội tại của từng doanh nghiệp. Vì vậy, đối với GDPL cho NLĐ, trước tiên là trách nhiệm của doanh nghiệp. 
Thứ hai, việc GDPL cho doanh nghiệp, NLĐ cần được tiến hành thông qua nhiều hình thức với nội dung phong phú. Ở Canada có hình thức PBGDPL thông qua các chương trình pháp luật được phát sóng theo định kỳ hàng tuần, hàng ngày; ở Australia, Thái Lan thông qua các chương trình giảng dạy với các đối tượng phù hợp khác nhau đã phát huy được hiệu quả cao. Hàn Quốc có Chuyên trang về hỗ trợ pháp lý quốc gia, họ thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, NLĐ thông qua việc tư vấn pháp luật; hỗ trợ thông tin; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, phù hợp với mục tiêu của từng loại hình doanh nghiệp, nhu cầu của NLĐ... 
Qua đó, cần tiếp tục tổng kết, đánh giá, nghiên cứu để đa dạng các nội dung tuyên truyền, GDPL cho NLĐ cho phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng NLĐ là cần thiết. Đồng thời, việc lựa chọn hình thức triển khai GDPL gắn với điều kiện đặc thù của từng nhóm NLĐ, nhu cầu và yêu cầu GDPL cho đối tượng này trong từng giai đoạn; cần phát huy sự sáng tạo, làm việc chuyên nghiệp, trách nhiệm của các chủ thể GDPL; Quan trọng hơn hết, phải tiếp tục nhân rộng các hình thức hiệu quả, kết nối được doanh nghiệp, NLĐ với cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước và xây dựng chính sách như: tư vấn pháp luật miễn phí, đối thoại chính sách giữa cơ quan nhà nước, NSDLĐ, NLĐ và tổ chức đại diện cho NLĐ; sách, tài liệu pháp luật được biên soạn phù hợp với nhu cầu của NLĐ, thiết kế ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thực hiện; đẩy mạnh GDPL trên phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội... 
Thứ ba, có một số hình thức, cách thức thực hiện GDPL của các quốc gia có thể nghiên cứu, tham khảo, vận dụng phù hợp tại Việt Nam, cụ thể như:
- Tăng số lượng và đổi mới nội dung của Thông cáo báo chí từ kinh nghiệm của Australia.
Hiện nay, Bộ Tư pháp Việt Nam đang thực hiện xây dựng và phát hành Thông cáo VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng theo tháng/lần. Trong đó có các bài viết giới thiệu về sự cần thiết và những nội dung cơ bản của văn bản, nhằm phục vụ các cơ quan, đơn vị và cung cấp tư liệu, thông tin cho báo chí thực hiện truyền thông. Có lẽ thay vì Thông báo báo chí hàng tháng với các nội dung là giới thiệu các VBQPPL, cần đổi mới theo hướng tăng thời lượng phát hành theo tuần hoặc 02 tuần một số, trong đó bổ sung các bài viết của thành viên Hội đồng phối hợp, Lãnh đạo các bộ ngành về những vấn đề pháp lý có liên quan đến phạm vi quản lý của họ, nhằm phục vụ báo chí truyền thông.
-    Đổi mới việc xây dựng và phát hành Công báo từ kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp.
Tại Việt Nam, việc xây dựng và phát hành Công báo (bao gồm công báo in và công báo điện tử) không thuộc về Bộ Tư pháp. Phần kiến nghị về tổ chức bộ máy, cơ quan thực hiện công tác PBGDPL đã kiến nghị chuyển chức năng, nhiệm vụ này cho Bộ Tư pháp, song cần đổi mới theo hướng tăng thời lượng, số lần phát hành công báo, bảo đảm cho việc tiếp cận văn bản được kịp thời. Mặt khác có điều chỉnh phù hợp, bảo đảm tính đa dạng, hấp dẫn, phù hợp của nội dung Công báo để phong phú, hấp dẫn hơn, không chỉ là VBQPPL mà cả những vấn đề mà Quốc hội, Chính phủ đang thảo luận về xây dựng chính sách; hoặc một số án lệ, một số tập quán tích cực, tiến bộ vì hiện nay Bộ luật Dân sự đã thừa nhận tập quán, án lệ cũng là nguồn áp dụng pháp luật. Việc cấp phát công báo in chỉ nên tập trung cho địa bàn có nhiều khó khăn, việc tiếp cận với CNTT chưa nhiều; công báo điện tử phủ sóng trên diện rộng để đáp ứng nhiều đối tượng…
Thứ tư, từ kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy cần phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ những người thực hiện công tác GDPL. Ở các nước trên thế giới, đội ngũ thực hiện công tác này đều là những người, những chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật, họ là luật sư, thẩm phán... Vì vậy, Việt Nam muốn thực hiện hiệu quả công tác GDPL nói chung và cho NLĐ nói riêng trong thời gian tới thì cần xây dựng, phát triển đội ngũ chuyên trách, kiêm nhiệm thực sự vững vàng, giỏi về kiến thức pháp luật và kỹ năng nghiệp vụ.
 Thứ năm, đối với các chương trình GDPL cho doanh nghiệp, NLĐ việc triển khai thực hiện các chính sách, chương trình cần được tiến hành đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức đại diện doanh nghiệp để hỗ trợ toàn diện đáp ứng các nhu cầu trợ hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp, hình thành mối liên kết giữa các đơn vị thực hiện hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp, đặc biệt là kết hợp với các tổ chức hành nghề luật sư, các Đoàn luật sư tham gia vào hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, NLĐ. Ngoài ra, cần xây dựng mạng lưới tư vấn pháp luật tại các các vùng, địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đối tượng yếu thế trong xã hội; đồng thời xây dựng và phát sóng thường xuyên các Chương trình kinh doanh và pháp luật trên Đài truyền hình Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam cũng như các Đài phát thanh, truyền hình tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Xây dựng các chương trình đối thoại với doanh nghiệp giữa các cơ quan trung ương và các địa phương nhằm tạo sự thống nhất trong thực thi pháp luật của doanh nghiệp. Ngoài ra, hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nên thực hiện tập trung vào một số hoạt động chính, như tăng cường năng lực tiếp cận với các thông tin chính sách pháp luật, tăng cường năng lực góp ý hoàn thiện pháp luật của doanh nghiệp, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh nghiệp, cán bộ làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Thứ sáu, cần đẩy mạnh áp dụng CNTT để triển khai tốt công tác GDPL, bảo đảm cho người dân, NLĐ tiếp cận đầy đủ, kịp thời các chính sách pháp luật, tiện lợi, phù hợp với đặc thù trong môi trường làm việc, sinh hoạt của họ và tiết kiệm chi phí trong thực hiện GDPL. 
Thứ bảy, đẩy mạnh xã hội hóa công tác GDPL, giảm thiểu gánh nặng từ phía nhà nước, huy động sự tham gia của các tổ chức cá nhân vào công tác này; nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ chủ động trong tìm hiểu pháp luật của công dân, NLĐ. Qua thông tin về kinh nghiệm của các nước trong GDPL, chúng ta đều nhận thấy rất rõ vấn đề cơ bản trong cơ chế thực hiện GDPL ở các nước này đó là vai trò, trách nhiệm của nhà nước được giảm thiểu, thay vào đó là sự tham gia mạnh mẽ của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, đặc biệt đội ngũ, người có kiến thức, kinh nghiệm về pháp luật. Đồng thời, vai trò, trách nhiệm của người dân, NLĐ luông chủ động trong tìm hiểu, tuân thủ pháp luật; chính phủ và các tổ chức, cá nhân thực hiện công khai thông tin pháp luật, GDPL qua nhiều kênh khác nhau và người dân có trách nhiệm tìm hiểu pháp luật thông qua hình thức họ thấy phù hợp với mình.
Thứ tám, có thể nghiên cứu, tham khảo, áp dụng đối với Việt Nam những giá trị, mặt tích cực, phù hợp trong tổ chức bộ máy, cơ quan thực hiện công tác GDPL của các quốc gia, trong đó có chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và cơ chế hoạt động, cụ thể như:
Tham khảo, học tập, vận dụng hợp lý cơ chế hoạt động, vai trò điều tiết về kinh phí và phân định chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng tư vấn tiếp cận pháp luật ở Trung ương của Cộng hòa Pháp. 
Tại Việt Nam, Hội đồng phối hợp PBGDPL cũng được thành lập ở Trung ương và cấp tỉnh, nhưng chức năng của Hội đồng Trung ương chủ yếu tư vấn giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, hướng dẫn công tác PBGDPL trong phạm vi cùng cấp, mà chưa có chức năng chỉ đạo, theo dõi hoạt động của Hội đồng cấp tỉnh; hoặc không có vai trò điều tiết, phân bổ kinh phí hoạt động cho Hội đồng cấp tỉnh dựa trên cơ sở dân số và những vấn đề cần tập trung giải quyết hàng năm của từng địa phương. Do vậy, hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL ở nước ta còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, vai trò và trách nhiệm, sự phối hợp của Hội đồng Trung ương đối với Hội đồng cấp tỉnh chưa được đề cao và coi trọng, nhất là vấn đề quản lý và sử dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước phân bổ cho Hội đồng. 
Có thể việc điều chỉnh chức năng này của Hội đồng sẽ liên quan tới quy định hoặc sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước ở Việt Nam, nhưng đó cũng là cần thiết bởi như vậy sẽ bảo đảm cho việc sử dụng nguồn lực kinh phí tiết kiệm, hiệu quả, ưu tiên vào lĩnh vực và địa bàn trọng tâm, trọng điểm.
Ngô Quỳnh Hoa
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài chính (2020), Giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật và hỗ trợ pháp lý trong lĩnh vực tài chính cho doanh nghiệp, Hà Nội.

Xem thêm »