1. Doanh nghiệp huy động vốn bằng hình thức vay vốn của các tổ chức, doanh nghiệp
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp có thể vay tiền lẫn nhau. Những hình thức vay của các doanh nghiệp được thể hiện dưới các hình thức như: mua hàng trả chậm, trả góp; vay có lãi; vay không có lãi.
Hình thức mua hàng trả chậm, trả góp là dạng tín dụng thương mại, sẽ được trình bày tại chuyên đề sau. Tại chuyên đề này tác giả chỉ để cấp đến hoạt động vay có lãi và vay không có lãi giữa các tổ chức, doanh nghiệp.
Đối với hoạt động cho vay có lãi, thì theo quy định lại điểm b khoản 8 Điều 4 Thông tư 219/2013/TT-BTC quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT[1] như sau: “Hoạt động cho vay riêng lẻ, không phải hoạt động kinh doanh, cung ứng thường xuyên của người nộp thuế không phải là tổ chức tín dụng”.
Đối với hoạt động vay không có lãi, các doanh nghiệp có thể hỗ trợ nhau về vốn hoạt động, thông qua hợp đồng vay vốn không có lãi (lãi suất bằng 0). Việc cho vay này được thực hiện thông qua hợp đồng cho vay. Số tiền, thời gian vay, lãi suất, các quy định khác được thể hiện trong hợp đồng cho vay. Vì khoản vay không có lãi, nên được coi như khoản phải thu từ doanh nghiệp đi vay. Doanh nghiệp vay không hạch toán lãi vào chi phí kinh doanh, doanh nghiệp cho vay không có thu nhập về tài chính.
Theo quy định trên, doanh nghiệp được dùng tiền nhàn rỗi của mình để cho doanh nghiệp khác vay. Việc cho vay được thực hiện thông qua một hợp đồng cho vay. Hợp đồng cho vay sẽ được quy định cụ thể số tiền, thời gian, cũng như lãi suất của khoản vay: Bên vay tiền được tính lãi vay vào chi phí sản xuất, còn bên cho vay thì được thu lãi tiền vay và coi như một khoản đầu tư tài chính.
Điều 4 Thông tư 09/2015/TT-BTC có quy định về hình thức thanh toán trong giao dịch vay và cho vay giữa các Doanh nghiệp: “Hình thức thanh toán trong giao dịch vay, cho vay và trả nợ vay lẫn nhau giữa các Doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng. Các Doanh nghiệp không phải tổ chức tín dụng (Là các Doanh nghiệp không thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng) khi thực hiện các giao dịch vay, cho vay và trả nợ vay lẫn nhau sử dụng các hình thức thanh toán được quy định tại Khoản 2 Điều 3 Thông tư này.”
Vậy, Điều 3 của Thông tư 09/2015/TT-BTC đã quy định thế nào về hình thức giao dịch vay, cho vay và trả nợ lẫn nhau giữa các Doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng. Đó là: Các doanh nghiệp không sử dụng tiền mặt (Tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành) để thanh toán khi thực hiện các giao dịch góp vốn và mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp vào Doanh nghiệp khác.
Khi thực hiện giao dịch góp vốn và mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp vào D0oanh nghiệp khác, các Doanh nghiệp sử dụng các hình thức sau:
Thanh toán bằng Séc;
Thanh toán bằng Ủy nhiệm chi – Chuyển tiền;
Các hình thức thanh toán không sử dụng tiền mặt phù hợp khác theo quy định hiện hành.
Doanh nghiệp khi thực hiện giao dịch góp vốn và mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp vào Doanh nghiệp khác bằng tài sản (Không phải bằng tiền) thực hiện theo quy định của pháp luật về Doanh nghiệp.”
Căn cứ theo quy định trên, hình thức thanh toán trong giao dịch vay, cho vay và trả nợ vay lẫn nhau giữa các Doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng không dùng tiền mặt mà bao gồm các hình thức thanh toán:
Thanh toán bằng Séc.
Thanh toán bằng Ủy nhiệm chi – Chuyển tiền.
Các hình thức thanh toán không sử dụng tiền mặt khác.
Căn cứ Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự như sau:
1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.
2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.
4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.
Theo quy định trên giữa các doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do cam kết, thỏa thuận với nhau miễn không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
Như vậy, doanh nghiệp tư nhân không phải tổ chức tín dụng có thể cho doanh nghiệp khác vay vốn dựa trên sự thỏa thuận giữa hai bên thông qua hợp đồng vay tài sản và có công chứng chứng thực hợp đồng.
Doanh nghiệp vay vốn của các cá nhân, pháp nhân nói chung, của các tổ chức tín dụng nói riêng không bắt buộc phải có tài sản đảm bảo. Mặc dù Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ dung năm 2017) quy định “trước khi quyết định cấp tín dụng, tổ chức tín dụng phải yêu cầu khách hàng cung cấp một trong các điều kiện là biện pháp bảo đảm tiền vay”. Tuy nhiên, có thể hiểu là cho vay không có tài sản bảo đảm (mà điển hình là tín chấp) cũng là một biện pháp bảo đảm tiền vay.
Doanh nghiệp cũng không bị giới hạn số vốn vay so với vốn điều lệ hay vốn chủ sở hữu, trừ đối với một số trường hợp như doanh nghiệp nhà nước, thì việc huy động vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh phải đảm bảo tổng số nợ phải trả bao gồm các khoản bảo lãnh đối với công ty con không quá ba lần vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp được ghi trên báo cáo tài chính quý hoặc báo cáo tài chính năm của doanh nghiệp tại thời điểm gần nhất với thời điểm huy động vốn. Trường hợp huy động vốn trên mức này và huy động vốn của tổ chức, cá nhân nước ngoài thì do đại diện chủ sở hữu xem xét, phê duyệt[2]
Tại Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hợp đồng vay tài sản như sau:
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Bộ luật dân sự 2015 quy định về việc cho vay tài sản giữa các bên. Theo đó không có quy định nào về điều kiện của các chủ thể vay và cho vay tài sản. Theo đó cá nhân hoàn toàn có thể cho công ty vay tài sản (tiền) nếu việc vay này được thực hiện phù hợp với các quy định của pháp luật về vay tài sản.
Nghĩa vụ của doanh nghiệp cho vay và doanh nghiệp vay được thực hiện theo quy định tại Điều 465 và Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
* Nghĩa vụ của bên cho vay
- Giao tài sản cho bên vay đầy đủ, đúng chất lượng, số lượng vào thời điểm và địa điểm đã thỏa thuận.
- Bồi thường thiệt hại cho bên vay, nếu bên cho vay biết tài sản không bảo đảm chất lượng mà không báo cho bên vay biết, trừ trường hợp bên vay biết mà vẫn nhận tài sản đó.
- Không được yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn, trừ trường hợp quy định tại Điều 470 Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan quy định khác.
* Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
- Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
- Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
- Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
+ Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật này;
+ Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Từ quy định trên thì bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
- Thủ tục hồ sơ vay tiền của doanh nghiệp khác:
+ Hợp đồng vay tiền hoặc Biên bản vay mượn tiền;
+ Chứng từ thanh toán qua ngân hàng;
+ Hóa đơn chi phí lãi vay
Như vậy, trong quá trình hoạt động của mình, các doanh nghiệp sẽ liên tục phải huy động vốn để phù hợp với hoạt động kinh doanh và quản trị công ty. Pháp luật hiện nay có phép doanh nghiệp huy động vốn theo nhiều cách khác nhau. Đối với hoạt động huy động vốn điều lệ, doanh nghiệp buộc phải tuân theo các quy định của pháp luật doanh nghiệp, pháp luật đầu tư, pháp luật chứng khoán và pháp luật có liên quan. Đối với hoạt động huy động vốn đầu tư, doanh nghiệp có thể linh hoạt hơn trong việc lựa chọn cách thức huy động vốn, có thể cùng lúc thực hiện nhiều các thức huy động vốn tuỳ thuộc vào nhu cầu hoạt động, kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp huy động vốn bằng hình thức vay vốn của các cá nhân
Việc vay tiền giữa doanh nghiệp và cá nhân thì không bắt buộc về hình thức giao dịch mà có thể thực hiện bằng bất kỳ hình thức nào theo quy định pháp luật theo sự thoả thuận của các bên: dùng tiền mặt hoặc các hình thức chuyển khoản khác.
Doanh nghiệp vay vốn cá nhân thì sẽ không cần phải chuyển khoản tiền cho vay và trả nợ. Cá nhân có thể cho doanh nghiệp vay bằng tiền mặt và doanh nghiệp khi trả nợ cho cá nhân có thể dùng tiền mặt để trả nợ.
Về vấn đề về lãi suất, căn cứ theo Khoản 1 điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định theo đó lãi suất vay như sau:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”
Như vậy, lãi suất cho vay sẽ do các bên tự thỏa thuận với nhau. Trường hợp các bên có sự thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá mức 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Trường hợp lãi suất theo sự thỏa thuận của các bên vượt quá lãi suất giới hạn được quy định trên thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020, có nhiều loại hình doanh nghiệp được phép vay, cho vay, bán tài sản. Công ty bao gồm công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn (1 thành viên và 2 thành viên trở lên), công ty cổ phần. Các loại hình công ty đều có tư cách pháp nhân theo quy định. Việc vay tiền cá nhân của các loại hình công ty có gì khác nhau?