Bình luận về tội ra bản án trái pháp luật từ tình huống vụ việc cụ thể

Công ty Cổ phần phát triển Thủy Long (tỉnh Thái Bình) có Đơn tố cáo Ông Lưu Toàn Nghĩa, Thẩm phán Tòa án Nhân dân (TAND) tỉnh Thái Bình việc ban hành Bản án số 18/2022/HC-ST trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty. Ngày 10/10/2022, Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân (KSND) Tối cao đã có Văn bản yêu cầu Viện KSND tỉnh Thái Bình kiểm sát theo thẩm quyền, nếu có dấu hiệu chuyển Cơ quan điều tra Viện KSND Tối cao để xử lý theo quy định của pháp luật... Liên quan đến tội phạm này qua trao đổi với Luật sư Trần Minh Dũng (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) bình luận về tội này như sau:

Theo Điều 370, Bộ luật hình sự quy định về tội ra bản án trái pháp luật như sau:
1. Thẩm phán, Hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
c) Kết án oan người vô tội về tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Bỏ lọt tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng; người phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng;
đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
a) Kết án oan người vô tội về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Bỏ lọt tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của bị cáo, người bị hại, đương sự mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Dẫn đến bị cáo, người bị hại, đương sự tự sát;
đ) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
TRAO ĐỔI:
1. Ra bản án trái pháp luật là ban hành bản án mà Thẩm phán hoặc Hội thẩm biết rõ là trái pháp luật.
2. Dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này cũng là chủ thể đặc biệt và đặc biệt hơn nữa là chỉ có Thẩm phán hoặc Hội thẩm (Hội thẩm nhân dân hoặc Hội thẩm quân dân) mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
Điều luật quy định chỉ có Thẩm phán nhưng không vì thế mà cho rằng đối với các chức vụ như: Chánh án, Phó tránh án, Chánh toà, Phó tránh toà không phải là chủ thể của tội phạm này. Nếu Chánh án, Phó tránh án, Chánh toà, Phó tránh toà được giao xét xử vụ án (tức là họ thực hiện nhiệm vụ của Thẩm phán) mà ra bản án trái pháp luật thì vẫn là chủ thể của tội phạm này.
Trường hợp tuy Chánh án, Phó tránh án, Chánh toà, Phó tránh toà không trực tiếp xét xử vụ án nhưng đã ra lệnh cho Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật thì tuỳ trường hợp mà hành vi của họ có thể là đồng phạm với Thẩm phán về tội ra bản án trái pháp luật hoặc tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ - Điều 356 Bộ luật hình sự hoặc tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật – Điều 372 – Bộ luật hình sự.
Trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm đã hết nhiệm kỳ nhưng cố tình xét xử và ra bản án trái pháp luật thì không coi là hành vi ra bản án trái pháp luật vì họ không thỏa mãn dấu hiệu về chủ thể của tội phạm, mà hành vi của họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ - Điều 357 Bộ luật hình sự.
3. Các dấu hiệu thuộc về khách quan của tội phạm
Tội ra bản án trái pháp luật không chỉ xâm phạm đến uy tín của Toà án, mà còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng; quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của công dân.
Đối tượng tác động của tội phạm này là bản án. Bản án là một văn bản tố tụng do Thẩm phán, Hội thẩm nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành bao gồm: bản án hình sự, bản án dân sự, bản án hôn nhân và gia đình, bản án kinh tế, bản án lao động và bản án hành chính.
Cũng coi là đối tượng tác động của tội phạm này, đối với các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm và tái thẩm, bởi lẽ tuy tên văn bản là “quyết định” nhưng toàn bộ nội dung của nó không khác gì bản án.
Bản án, là một văn bản có bố cục gồm phần mở đầu, phần nội dung vụ án và vụ kiện (nhận thấy), phần xét thấy (nhận định, đánh giá, chứng minh) và phần quyết định. Thông thường bản án trái pháp luật được thể hiện chủ yếu ở phần quyết định, vì phần này có ý nghĩa quyết định toàn bộ nội dung xét xử của Hội đồng xét xử và nó là nội dung mà cơ quan thi hành án và những người tham gia tố tụng căn cứ vào đó dể thi hành. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tính trái pháp luật lại ở phần mở đầu như: xác định không đúng, không đầy đủ người tham gia tố tụng, hoặc tính trái pháp luật thể hiện ở phần xét thấy như đưa ra những căn cứ không đúng sự thật để chứng minh cho kết luận trái pháp luật. Vì vậy, bản án trái pháp luật là bản án không đúng pháp luật ở bất cứ phần nào, chứ không chỉ ở phần quyết định của bản án.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a) Hành vi khách quan
Thẩm phán, Hội thẩm ra bản án trái pháp luật có thể bằng cách viết ra, tuyên án, ban hành bản án mà biết rõ là trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu mới viết ra nhưng chưa tuyên án, chưa ban hành thì chưa phải là ra bản án.
Bản án được ví như là sản phẩm cuối cùng của quá trinh điều tra, truy tố, xét xử nhưng đó là kết quả trực tiếp của hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử. Do đó trách nhiệm trực tiếp đối với bản án là của các thành viên của Hội đồng xét xử. Vì là “sản phẩm” nên bản án phải là một văn bản có giá trị thi hành, nếu mới viết ra (soạn thảo) mà chưa tuyên đọc hoặc chưa ban hành thì chưa coi là đã “ra bản án”, mà đó chỉ là dự thảo bản án. Trường hợp bản án đã được thông qua trong phòng nghị án, có đủ các chữ ký của các thành viên Hội đồng xét xử nhưng vì lý do nào đó mà bản án đó chưa được tuyên đọc, chưa được ban hành, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cơ quan, tổ chức có liên quan chưa nhận được và toàn các quyết định của bản án đó chưa được thi hành thì là trường hợp phạm tội chưa đạt.
Để ra được một  bản án trái pháp luật. Thẩm phán hoặc Hội thẩm phải bằng những thủ đoạn khác nhau, vì bản án khác với quyết định. Quyết định có thể do một người ban hành nhưng bản án là văn bản của cả một tập thể (Hội đồng xét xử ba người hoặc năm người; nếu là quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì có thể nhiều hơn). Vì vậy, để ra một bản án trái pháp luật mà không bị phát hiện thì người phạm tội phải thực hiện nhiều thủ đoạn khác nhau. Ví dụ: nếu chỉ có Thẩm phán chủ toạ phiên toà có hành vi ra bản án trái pháp luật thì họ phải nói dối với các Hội thẩm, Thẩm phán khác hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác để các Hội thẩm, Thẩm phán khác ký vào bản án và biên bản nghị án.
Trường hợp Thẩm phán đã tuyên đọc bản án trái pháp luật nhưng sau khi tuyên án, vì sợ bị trách nhiệm nên đã sửa chữa bản án (bản án được phát hành) theo hướng không trái pháp luật thì người Thẩm phán đó vẫn phạm tội ra bản án trái pháp luật, bởi lẽ bản án tuy chưa ban hành nhưng đã công bố (tuyên án) là đã hoàn thành hành vi ra bản án.
Liên quan đến hành vi ra bản án trái pháp luật là việc nghị án. Theo quy định của pháp luật thì nghị án là cơ sở cho việc ra bản án, bình thường thì nội dung nghị án được xác định là tài liệu gốc, nếu giữa bản án và biên bản nghị án có sự khác nhau thì căn cứ vào biên bản nghị án để xác định. Vì vậy, nếu Thẩm phán tuyên đọc bản án hoặc ban hành bản án trái pháp luật nhưng biên bản nghị án lại không trái pháp luật thì chỉ có Thẩm phán chịu trách nhiệm về việc ra bản án trái pháp luật đó, còn Hội thẩm không chịu trách nhiệm bản án trái pháp luật đó. Tuy nhiên, hành vi nghị án và biên bản nghị án chưa phải là hành vi ra bản án. Vì vậy, nếu Hội đồng xét xử mới nghị án nhưng chưa ra bản án thì tuỳ trường hợp mà các thành viên của Hội đồng xét xử bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ra quyết định trái pháp luật quy định tại Điều 371 Bộ luật hình sự.
b) Hậu quả
 Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tuy nhiên, nếu hậu quả xảy ra thì tuỳ trường hợp, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 2 hoặc Khoản 3 của điều luật.
c) Các dấu hiệu khách quan khác
Đối với tội ra bản án trái pháp luật ngoài hành vi khách quan, nhà làm luật còn quy định một dấu hiệu khách quan rất quan trọng, đó là tính trái pháp luật của bản án mà Thẩm phán, Hội thẩm ban hành.
Một bản án bị coi là trái pháp luật là bản án có nội dung không đúng với quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Bản án trái pháp luật là bản án có những sai lầm nghiêm trọng về việc áp dụng Bộ luật hình sự và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng tới mức phải kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm như:
-  Kết án một người mà biết rõ là không có tội hoặc không kết án một người mà biết rõ là có tội.
-  Áp dụng không đúng điều khoản của Bộ luật hình sự theo hướng nặng hơn hoặc nhẹ hơn đối với người phạm tội. Ví dụ: Người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự nhưng lại áp dụng khoản 4, Khoản 2 hoặc Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự; áp dụng không đúng loại hình phạt hoặc áp dụng loại hình phạt quá nặng hoặc nhẹ đối với người phạm tội hoặc cho hưởng án treo không đúng với quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự; áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự; áp dụng không đúng các biện pháp tư pháp quy định trong Bộ luật hình sự.
-  Gây thiệt hại cho đương sự trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính. Ví dụ: Truất quyền thừa kế của người mà theo pháp luật về thừa kế họ có quyền thừa kế, cho ly hôn khi không đủ các điều kiện mà pháp luật về hôn nhân gia đình quy định cho ly hôn; hủy hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế khi các Hội đồng đó không vi phạm điều cấm; buộc người sử dụng lao động phải nhận lại người lao động mà người sử dụng đã buộc thôi việc đúng pháp luật về lao động và hợp đồng lao động; bác yêu cầu của người đi kiện về một quyết định hành chính trái pháp luật của UBND,…
-  Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi xét xử, nghị án và ra bản án như: Thẩm phán và Hội thẩm thuộc trường hợp phải từ chối xét xử hoặc bị thay đổi nhưng vẫn tham gia xét xử; xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng không đúng với quy định của luật tố tụng; tại phiên toà không thực hiện đúng trình tự các bước cần tiến hành để xét xử một vụ án.
5. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
 Người phạm tội ra bản án trái pháp luật thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý (cố ý trực tiếp), tức là người phạm tội nhận thức rõ việc ra bản án của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Điều luật quy định “biết rõ là trái pháp luật” tức là, người phạm tội phải biết rõ bản án mà mình ban hành là trái pháp luật; nếu vì lý do khách quan hoặc do trình độ nghiệp vụ non kém mà Thẩm phán, Hội thẩm không biết rõ là trái pháp luật thì không phạm tội ra bản án trái pháp luật.
Tuy điều luật không quy định động cơ là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này nhưng không vì thế mà không cần xác định động cơ của người phạm tội. Thực tiễn xét xử cho thấy hành vi ra bản án trái pháp luật tới mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự đều xuất phát từ động cơ xấu như vì vụ lợi, vì thù tức hoặc vì động cơ cá nhân khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích Nhà nước, lợi ích của cơ quan, tổ chức hoặc lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, việc xác định động cơ phạm tội có một ý nghĩa rất quan trọng để xác định ý thức chủ quan của người phạm tội có biết rõ bản án mà mình ra là trái pháp luật hay không.
Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp người phạm tội vì động cơ thành tích, muốn giải quyết nhanh để giảm tỷ lệ án tồn đọng. Căn cứ vào động cơ phạm tội có thể xác định người phạm tội có biết rõ bản án mà mình ban hành có trái pháp luật hay không.
Nếu Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhận hối lộ mà ra bản án trái pháp luật thì ngoài tội ra bản án trái pháp luật còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ. /.