THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TÁC HỖ TRỢ PHÁP LÝ CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Khái niệm hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là thuật ngữ chưa được làm rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05/5/2010 của Thủ

1. Khái niệm, sự cần thiết và nguyên tắc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

1.1. Khái niệm hỗ trợ pháp lý

Khái niệm hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là thuật ngữ chưa được làm rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và Quyết định số 585/QĐ-TTg ngày 05/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn năm 2010 – 2014. Tuy nhiên, nghiên cứu nội dung các quy định pháp lý hiện hành và căn cứ trên thực tiễn, có thể đưa ra khái niệm “hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp” như sau:
Hỗ trợ pháp lý được hiểu là việc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện miễn phí cho doanh nghiệp các hoạt động do pháp luật quy định nhằm nâng cao tri thức pháp luật và ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của doanh nghiệp, góp phần bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong kinh doanh, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

1.2. Sự cần thiết của việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Để tham gia và hoạt động hiệu quả trên thị trường, doanh nghiệp cần phải được trang bị các điều kiện cơ bản như: điều kiện về vốn, về nhân lực, về năng lực quản lý, về công nghệ và đặc biệt là điều kiện về hiểu biết pháp luật.
Hiểu biết pháp luật là nhu cầu cần thiết và quan trọng đối với doanh nghiệp xuất phát từ một số lý do cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, có hiểu biết pháp luật thì doanh nghiệp mới có thể thi hành pháp luật tốt được.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hoạt động đa dạng, được thực hiện trong nhiều lĩnh vực và vì vậy có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều đối tượng khác trong xã hội. Cũng chính hoạt động kinh doanh là hoạt động tìm kiếm lợi nhuận nên Nhà nước nào cũng quan tâm đến việc cần phải làm sao để hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật, không gây thiệt hại cho các chủ thể khác cũng như cho môi trường xung quanh. Như vậy, pháp luật được ban hành mà không được các doanh nghiệp hiểu biết, nắm bắt và thực hiện thì mục đích ban hành pháp luật là không đạt được.
Vì vậy, Nhà nước ta không chỉ cần phải quan tâm đến việc ban hành pháp luật mà còn làm sao để pháp luật trở thành nhận thức chi phối hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp. Một trong những công cụ để pháp luật đến được với doanh nghiệp chính là công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
- Thứ hai, có hiểu biết pháp luật thì doanh nghiệp mới hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Kinh doanh là hoạt động của doanh nghiệp. Nhà nước không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong việc làm hình thành cũng như thực hiện các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ, kinh doanh thì phải ký kết các hợp đồng. Để việc ký kết các hợp động được diễn ra bình thường, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các bên thì Nhà nước phải ban hành pháp luật về hợp đồng (Bộ luật Dân sự, các luật chuyên ngành..) để hướng dẫn các bên thực hiện một loạt công việc như phải bảo đảm hình thức luật định của hợp đồng, nội dung hợp đồng phải hợp pháp và đặc biệt là trách nhiệm phải tuân thủ đúng các điều khoản mà các bên đã cam kết với nhau. Các quy định pháp luật về vấn đề này đã làm cho hợp đồng được ký kết một cách trung thực, thiện chí, đúng ý chí của các bên và do vậy, có tác dụng rất lớn trong việc bảo đảm tính hiệu quả của các giao dịch trong kinh doanh.
- Thứ ba, có hiểu biết pháp luật thì doanh nghiệp mới có thể hạn chế được các rủi ro trong kinh doanh.
Trong kinh doanh, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu mà các doanh nghiệp hướng tới, vì vậy, các doanh nghiệp có thể làm bất cứ việc gì để thu được lợi nhuận. Một trong những việc mà doanh nghiệp có thể làm là lợi dụng sự yếu kém, trong đó có sự yếu kém về mặt pháp luật của đối tác để “làm tiền”. Vì vậy, sự hiểu biết pháp luật đã trở thành một điều kiện vô cùng quan trọng để hạn chế các rủi ro, mất mát trong kinh doanh.
Do đó, nâng cao hiểu biết pháp luật cho doanh nghiệp chính là trang bị vũ khí để doanh nghiệp tự bảo vệ chính mình trong môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Tóm lại, bên cạnh nhu cầu hỗ trợ về vốn, thông tin, mặt bằng sản xuất kinh doanh... thì nhu cầu về hỗ trợ pháp lý cũng là một trong những yêu cầu cấp thiết của doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập. Nắm vững và tuân thủ những quy định pháp luật ngay từ khi thành lập và trong quá trình hoạt động là điều kiện rất quan trọng để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội.

1.3. Nguyên tắc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

Việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời gian qua được thực hiện trên cơ sở quán triệt một số nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, Nhà nước chỉ hỗ trợ pháp lý cho một số đối tượng nhất định (nguyên tắc hạn chế về đối tượng được hỗ trợ pháp lý)
Theo pháp luật hiện hành thì do năng lực tài chính và các điều kiện khác của Nhà nước ta là còn hạn chế nên chỉ có một số đối tượng nhất định (là các doanh nghiệp) mới được hỗ trợ pháp lý, còn các chủ thể khác tuy có hoạt động sản xuất kinh doanh trên thương trường nhưng không được Nhà nước hỗ trợ pháp lý.
- Thứ hai, Nhà nước chỉ hỗ trợ chứ không làm thay thị trường trong việc đáp ứng các nhu cầu về mặt pháp lý của doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh là hoạt động do doanh nghiệp tiến hành và trước hết là vì lợi ích của mình. Doanh nghiệp phải tự mình và bằng năng lực kinh tế, tài chính, khoa học công nghệ và các khả năng khác mà mình có được để giải quyết các vấn đề phát sinh. Trong lĩnh vực pháp luật cũng vậy, các doanh nghiệp phải tự mình giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh từ hoạt động kinh doanh của mình. Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần cho doanh nghiệp trong việc giải quyết các công việc đó mà không bao biện làm thay toàn bộ. Ví dụ, khi phát sinh tranh chấp với nhau thì các doanh nghiệp có thể thuê luật sư để được tư vấn hoặc tham gia tố tụng. Nhà nước không cử luật sư cũng như không hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp để giải quyết các vụ tranh chấp này. Tóm lại, về cơ bản, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là việc của doanh nghiệp, và cần phải được giải quyết bằng cơ chế thị trường; Nhà nước không có trách nhiệm tham gia giúp doanh nghiệp giải quyết toàn bộ các công việc pháp lý phát sinh từ việc giải quyết các tranh chấp đó.
- Thứ ba, nội dung hỗ trợ pháp lý phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước.
Việc hỗ trợ đến đâu, dưới hình thức nào và với mức độ ra sao là phụ thuộc vào khả năng tài chính và các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể khác của đất nước trong từng thời kỳ mà không thể đóng khung một cách cứng nhắc vì điều đó sẽ gây khó khăn cho Nhà nước.

2. Các văn bản pháp luật về hỗ trợ pháp lý

Vì công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mới được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong khoảng gần 10 năm (từ năm 2008 đến nay) nên pháp luật về hỗ trợ pháp lý hiện nay nhìn chung là còn hết sức đơn giản, bao gồm một số văn bản cụ thể sau đây:
(1) Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong đó quy định cụ thể nội dung, hình thức và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc triển khai thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
(2) Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 585/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn năm 2010-2014, định hướng đến năm 2020, trong đó có 03 dự án gồm: hỗ trợ nâng cao chất lượng hoạt động thông tin pháp lý cho doanh nghiệp; hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên một số hoạt động cụ thể; tăng cường năng lực cho cơ quan tổ chức thực hiện chức năng hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
(3) Để triển khai Nghị định số 66/2008/NĐ - CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và Quyết định số 585/2008/QĐ-TTg ngày 05/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn năm 2010 -2014, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các địa phương đã ban hành nhiều văn bản như Chỉ thị, Quyết định, Kế hoạch triển khai các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 157/2010/TT-BTC-BTP ngày 12/10/2010 của Bộ Tài chính-Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
(4) Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 quy định tại Điều 14 về hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp luật cho DNNVV. Theo điều luật này thì:
+ Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xây dựng mạng lưới tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi là mạng lưới tư vấn viên). Doanh nghiệp nhỏ và vừa được miễn, giảm chi phí tư vấn khi sử dụng dịch vụ tư vấn thuộc mạng lưới tư vấn viên.
+ Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan, tổ chức, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện các hoạt động sau đây để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa:
a) Xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật;
b) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý để cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tư vấn pháp luật.

3. Đánh giá chung về pháp luật hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

3.1. Về đối tượng được hỗ trợ

- Việc hỗ trợ chỉ áp dụng cho doanh nghiệp mà không cho mọi chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh (không bao gồm hợp tác xã, hộ kinh doanh…).
- Việc hỗ trợ được thực hiện mà không phân biệt quy mô doanh nghiệp (Theo Nghị định số 66/2008/NĐ-CP, đã là doanh nghiệp thì được Nhà nước hỗ trợ mà không phân biệt doanh nghiệp đó thuộc quy mô nào (lớn, nhỏ hay vừa).
- Hộ kinh doanh là một lực lượng kinh doanh rất lớn (khoản 3.5 triệu) nhưng lại không thuộc đối tượng được Nhà nước hỗ trợ pháp lý. Đây là một sự bất hợp lý cần khắc phục càng sớm càng tốt.
- Việc chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp chưa thực sự được Nhà nước quan tâm đúng mức (mặc dù Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy định vấn đề này nhưng đến 01/01/2018 mới có hiệu lực thi hành).

3.2. Về nội dung hỗ trợ

Theo pháp luật hiện hành thì nội dung hỗ trợ nhìn chung là còn hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp.Nội dung hỗ trợ được ghi nhận chủ yếu trong Nghị định số 66/2008/NĐ-CP, bao gồm một số biện pháp hỗ trợ sau đây:
(1) Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận thông tin pháp luật
Đối với các doanh nghiệp, việc nắm bắt kịp thời và đúng đắn những quy định của pháp luật là hết sức cần thiết. Việc tiếp cận văn bản pháp luật, am hiểu và thực thi theo đúng pháp luật của doanh nghiệp tác động rất lớn đến chiến lược phát triển, giúp doanh nghiệp phòng tránh rủi ro trong kinh doanh, đảm bảo quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động. Qua thực tiễn hoạt động của các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp trong thời gian qua cho thấy những loại văn bản và nội dung pháp lý mà doanh nghiệp cho là có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng đến hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp đó chính là những văn bản hướng dẫn thi hành Luật, Nghị định, trong đó quan trọng nhất là các Thông tư của Bộ và liên Bộ. Đây là những loại văn bản giúp doanh nghiệp thực hiện một cách cụ thể chi tiết quyền và nghĩa vụ của mình trong kinh doanh, trong khi đó, chúng lại luôn luôn thiếu vắng trong các đạo luật do Quốc hội ban hành.
(2) Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc cập nhật và nâng cao kiến thức pháp luật kinh doanh nói chung và pháp luật theo từng vấn đề chuyên sâu nói riêng
Như phần trên đã trình bày, sự hiểu biết pháp luật đã trở thành một điều kiện vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Tri thức pháp luật nói chung đang trở thành một loại vũ khí để giúp các doanh nghiệp giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Qua hoạt động của các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp trong thời gian qua cho thấy, nhận thức về pháp luật của các doanh nghiệp nhìn chung là còn rất hạn chế, không có tính hệ thống, chắp vá, không cập nhật và đặc biệt là không đủ độ tin cậy để có thể giúp doanh nghiệp tự giải quyết các vấn đề phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, yêu cầu về việc được bồi dưỡng kiến thức pháp luật nói chung đang là một nhu cầu rất bức xúc hiện nay của doanh nghiệp. Tuy nhiên, kiến thức pháp lý nói chung tuy là cần thiết nhưng rõ ràng là chưa đủ để doanh nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả. Các doanh nghiệp hiện nay rất cần những lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật chuyên ngành. Ví dụ, các doanh nghiệp muốn nắm được một cách cụ thể các kỹ năng ký kết và thực hiện hợp đồng làm sao để không bị hớ khi xác lập, thực hiện giao dịch kinh tế với các đối tác. Những yêu cầu này buộc các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp phải mời các chuyên gia hàng đầu về từng lĩnh vực, pháp luật kinh tế thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu này của doanh nghiệp.
(3) Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc giải đáp các vấn đề pháp lý phát sinh mà doanh nghiệp quan tâm
Quy định pháp luật tuy được thể hiện với văn phong đơn nghĩa nhưng là sản phẩm của khoa học pháp lý và quản lý nhà nước, vì vậy không dễ hiểu với tất cả mọi người, trong đó có các doanh nhân. Từ đó, giải đáp pháp luật đã trở thành một nhu cầu của các doanh nghiệp. Thực tiễn hoạt động của các tổ chức pháp chế doanh nghiệp trong thời gian qua cho thấy nhu cầu này có xu hướng ngày càng tăng và hầu như các doanh nghiệp chưa thỏa mãn về các quy định của Nghị định số 66/2008/NĐ-CP về vấn đề này. Cụ thể là, theo Nghị định số 66/2008/NĐ-CP, doanh nghiệp chỉ được các cơ quan nhà nước trả lời về những thắc mắc liên quan đến nội dung của các quy định pháp luật. Còn các vụ việc cụ thể mà doanh nghiệp đang gặp phải thì không được các cơ quan này có trách nhiệm trả lời. Sự không bằng lòng của các doanh nghiệp về vấn đề này là rất chính đáng vì các doanh nghiệp rất cần sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước không chỉ trong việc giải đáp về nội dung quy định pháp luật mà còn cả trong việc trả lời về các vụ việc cụ thể phát sinh giữa các doanh nghiệp với nhau.
(4) Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc kiến nghị và được tiếp nhận kiến nghị
Một hệ thống pháp luật chỉ được coi là hiệu quả khi quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật luôn mang tính chất mở và được hoàn thiện thường xuyên. Nói cách khác, quá trình vận hành, phát triển không ngừng của nền kinh tế -  xã hội luôn đòi hỏi pháp luật phải được hoàn thiện để điều chỉnh một cách kịp thời các hiện tượng, quá trình nảy sinh trong thực tiễn. Trong giai đoạn đổi mới, quá trình xây dựng hệ thống văn bản pháp lý của nước ta có những thay đổi tiến bộ theo hướng cơ quan chủ trì soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật phải có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến góp ý của các doanh nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau như tổ chức hội nghị đối thoại doanh nghiệp, doanh nghiệp gửi văn bản đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn bản luật liên quan. Điều cần khẳng định là sự thay đổi này đã đem lại những lợi ích tích cực, góp phần nâng cao chất lượng xây dựng văn bản pháp luật và dần tạo lập một môi trường mang tính văn hóa đối thoại thể hiện tính dân chủ trong xã hội, đồng thời giải quyết và nhận diện nhanh chóng những bất cập khi áp dụng hệ thống quy định pháp luật trong thực tiễn hoạt động doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn hai hạn chế:
Thứ nhất, các doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp vẫn còn rất thụ động góp ý các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Thứ hai, các cơ quan nhà nước cũng còn có thái độ đại khái, sơ lược trong việc tiếp thu ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và chính hiện tượng này đã làm giảm bớt sự tích cực của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp trong việc góp ý cho các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

3.3. Về hình thức văn bản pháp luật điều chỉnh công tác hỗ trợ pháp lý

Như phần trên đã trình bày, công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mới được Nhà nước ta quan tâm trong những năm gần đây nên pháp luật về vấn đề này nhìn chung là còn sơ khai, chưa thực sự hoàn thiện kể cả về mặt hình thức. Điều này thể hiện ở chỗ hình thức văn bản cao nhất trong lĩnh vực này là Nghị định số 66/2008/NĐ-CP nêu trên. Mặc dù Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được Quốc hội thông qua ngày 12/6/2017 có đề cập đến công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng do Luật này chỉ có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 nên có thể nói về mặt hình thức văn bản thì pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đang tồn tại ở một văn bản có giá trị thấp (tầm Nghị định của Chính phủ).
4. Một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
Như trên đã trình bày, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được ban hành và có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/2018. Trong Luật này đã ghi nhận hỗ trợ pháp lý là một nội dung mà Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ cho doanh nghiệp tồn tại song song với các nội dung hỗ trợ khác (hỗ trợ về tài chính; hỗ trợ về tín dụng; hỗ trợ mặt bằng sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ đào tạo nhân lực quản lý, điều hành doanh nghiệp… Để việc hỗ trợ pháp lý đạt hiệu quả, cần tiến hành một số công việc sau đây:
1. Hỗ trợ pháp lý cần phải được điều chỉnh một các độc lập, tức là Chính phủ cần phải ban hành một nghị định riêng về hỗ trợ pháp ký cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mà không nên nhập vào một nghị định hướng dẫn thi hành Luật Hỗ trợ DNNVV. Đây là việc làm cần thiết vì xung quanh việc hỗ trợ DNNVV phát sinh rất nhiều công việc mà Nghị định này phải giải quyết. Số lượng công việc (vấn đề cần giải quyết) là rất nhiều, do đó, phải dành riêng một văn bản quy phạm pháp luật là Nghị định thì mới “kham” nổi. Nghị định chung hướng dẫn thi hành Luật Hỗ trợ DNNVV cũng cần phải giải quyết nhiều vấn đề có liên quan nên không thể “ôm” được tất cả các vấn đề liên quan đến hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
2. Nghị định về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ thay thế Nghị định số 66/2008/NĐ-CP hiện hành. Nghị định này cần phải giải quyết những vấn đề chủ yếu sau đây:
- Nêu định nghĩa về khái niệm “hỗ trợ pháp lý” để giúp các doanh nghiệp biết được hỗ trợ pháp lý là gì, vai trò, ý nghĩa của nó đối với hoạt động của các doanh nghiệp;
- Nghiên cứu để mở rộng hoặc thu hẹp (nếu thấy cần thiết) các hình thức hỗ trợ, qua đó đảm bảo tính hiệu quả của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp;
 - Quy định rất đầy đủ, rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước có liên quan cũng như hiệp hội các doanh nghiệp trong việc thực hiện công tác hỗ trợ. Đây là một hạn chế của Nghị định 66/2008/NĐ-CP cần phải được khắc phục để chấm dứt tình trạng biệt lập, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước cũng như giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp trong việc thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp;
- Quy định đầy đủ các vấn đề liên quan đến việc xây dựng, ban hành, thực hiện và đánh giá chất lượng, hiệu quả của các Chương trình hỗ trợ do các Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh xây dựng và tổ chức thực hiện. Đây cũng là một nội dung rất quan trọng, không có trong Nghị định 66 và do đó phải bổ sung vào Nghị định mới này./.
 
PGS.TS Dương Đăng Huệ -
Giám đốc Trung tâm Thông tin tư vấn  pháp luật và Bồi dưỡng nghiệp vụ, CLBPCDN